ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ CHỦ VÀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
ĐẢM
BẢO QUYỀN TỰ CHỦ VÀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH
CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
(Bài viết cho Hội thảo Tự chủ trong Giáo dục đại học –
Những vấn đề đặt ra, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam,
21/10/2018)
LÂM QUANG THIỆP
Bài này trình bày ngắn gọn, nhưng cố gắng đảm bảo tính
hệ thống, về vấn đề quản trị và quản lý giáo dục đại học (GDĐH) trong nền kinh
tế thị trường, và nêu một số giải pháp để thực hiện hệ thống quản trị và quản
lý đó trong GDĐH nước ta.
1.
THỰC CHẤT CỦA HỆ THỐNG QUẢN TRỊ VÀ QUẢN LÝ
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Trước
thời kỳ “đổi mới” hệ thống kinh tế xã hội nước ta nói chung và GDĐH nói riêng được
quản trị và lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Chỉ tiêu đào tạo hàng năm
được giao cho trường ĐH theo kế hoạch nhà nước, kinh phí đào tạo kể cả học bổng
cho toàn bộ sinh viên (mà số lượng rất nhỏ) được Nhà nước cấp từ ngân sách,
sinh viên tốt nghiệp được Nhà nước phân phối cho các cơ sở kinh tế quốc doanh
và cơ quan nhà nước. Với cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ đó, hiển nhiên
chương trình đào tạo cũng được Nhà nước (Bộ) quy định xem như một sự đặt hàng,
đội ngũ cán bộ quản lý, viên chức, giáo chức chủ yếu cũng được quản lý từ Bộ,
cơ quan “chủ quản” của trường ĐH.
Sau
Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI (cuối năm 1986), kinh tế xã hội nói chung và GDĐH
nói riêng bước vào thời kỳ “đổi mới”. Các thể chế mới dần dần hình thành, thay
thế dần các thể chế cũ. Về tài chính, trường ĐH có quyền tìm thêm các nguồn
ngoài ngân sách nhà nước, qua học phí của
sinh viên và nhiều thu nhập khác nhờ các hợp đồng đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất, dịch
vụ xã hội. Về kế hoạch, ngoài chỉ tiêu đào tạo do Nhà nước giao, trường ĐH có
thể đề xuất quy mô tuyển sinh dựa vào khả năng đào tạo của mình và nhu cầu của
xã hội. Về mặt chuyên môn, trường ĐH có quyền dựa vào những định mức tổng quát
của Bộ về khung chương trình và tỷ lệ các
khối kiến thức để xây dựng chương trình đào tạo các ngành chuyên môn của mình, có quyền đề xuất các ngành
đào tạo mới khi phát hiện ra nhu cầu của
xã hội, có quyền tổ chức biên soạn sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy. Về
quan hệ quốc tế, trường ĐH có quyền đặt quan hệ và ký kết các văn bản hợp tác
với các trường ĐH nước ngoài. Rõ ràng quyền tự chủ nói trên đã tạo điều kiện
cho các trường ĐH chủ động triển khai rất nhiều hoạt động có hiệu quả, góp phần
đưa hệ thống ĐH nước ta thoát ra khỏi những thời kỳ hết sức khó khăn và đem lại
nhiều thành tựu mới.
Một
dấu mốc quan trọng là Luật Giáo dục năm 1998 lần đầu tiên đã đưa vào hệ thống
GDĐH nước ta cặp khái niệm “tự chủ và tự chịu trách nhiệm” (thực chất chúng được
“dịch” từ cặp khái niệm autonomy và accountability *, mà
chính xác hơn, nên dịch là “quyền tự chủ” và “trách nhiệm giải trình”).
Khi
nghiên cứu lịch sử GDĐH thế giới nhiều nhà nghiên cứu đã xem thời điểm xuất
hiện các trường có quyền tự chủ chính
là thời điểm xuất hiện GDĐH [The History…,1997 ]. Xét từ góc độ đó, khái niệm
quyền tự chủ (autonomy) mà một khía cạnh của nó là quyền tự do học thuật
(academic freedom) gắn với khái niệm “trường ĐH”. Có thể nói sự chấp nhận của
xã hội về quyền tự chủ của trường ĐH là một thành tựu quan trọng trong cuộc đấu tranh lâu dài của cộng đồng ĐH với
các thế lực tôn giáo và các giới cầm quyền qua nhiều thời kỳ lịch sử. Về bản
chất và chức năng, trường ĐH là nơi sáng tạo tri thức, nơi bảo tồn và chuyển
giao văn hóa của dân tộc và của nhân loại. Xét theo khía cạnh đó trường ĐH nói
chung cùng tồn tại và đồng hành với dân tộc và nhân loại, tức là tuổi thọ của trường
ĐH nói chung dài hơn tuổi thọ của mọi tôn giáo và thể chế chính trị. Do đó, để đảm
bảo cho học thuật, tri thức được phát triển một cách khách quan trong suốt chiều
dài của lịch sử, không bị thần quyền ràng buộc và các thể chế chính trị nhất thời
cản trở, xã hội nói chung và thậm chí giới cầm quyền cũng phải chấp nhận quyền
tự chủ và tự do học thuật trong khuôn viên của trường đại học. Cần lưu ý rằng các
quyền tự chủ đại học gắn liền với hàm
lượng trí tuệ cao của trường đại học.
Tuy
rằng xét về mặt lịch sử quyền tự chủ đại học đã đạt được sự công nhận như vậy,
nhưng trong thực tế không bao giờ có một
thứ quyền tự chủ tuyệt đối. Và để đảm bảo “tính an toàn” khi nói đến quyền tự
chủ đại học, người ta thường gắn quyền tự chủ với một khái niệm sóng đôi với nó
là trách nhiệm giải trình.
Như
vậy quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình là hai mặt đi đôi với nhau không thể
tách rời. Ở nhiều nước trên thế giới khi
đảm bảo quyền tự chủ cho các trường ĐH người ta cũng đồng thời xây dựng một hệ
thống hỗ trợ để nâng cao trách nhiệm giải trình của chúng. Với ý nghĩa đó, rõ
ràng không thể có một quyền tự chủ tuyệt đối như một số người lầm tưởng. Ngay ở
phương Tây, quan điểm tự chủ tuyệt đối cũng đã bị chính các học giả phương Tây
đả phá:
"GDĐH
đã từng được
nhiều người xem như
một "khu vườn kín". Khả
năng giao tiếp tốt
hơn trong nước và
quốc tế, và
sự mở cửa
rộng rải hơn
trong nhiều lĩnh vực
hoạt động khác có nghĩa
là các trường ĐH không thể tiếp
tục nấp sau tấm
bình phong "tự do học thuật"
nữa. Các trường ĐH cần phải
trình bày và giải
thích rộng rãi cho xã hội biết
họ muốn làm
gì và đang làm
những việc đó
tốt như thế
nào". [Malcolm Frazer, 1994]
Việc “trình bày và giải thích rộng
rãi cho xã hội
biết” nói trên chính là trách nhiệm giải trình.
Như
vậy, có thể nói cặp khái niệm “quyền tự chủ” và “trách nhiệm giải trình” phản ánh một
cách hàm xúc nội dung cốt lõi của hệ thống quản trị và quản lý GDĐH trong kinh
tế thị trường.
Như
vậy đảm bảo quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình là nội dung để thực hành hệ
thống quản trị và quản lý hệ thống GDĐH nước ta ngày nay, từ sau thời điểm “đổi
mới”. Chính việc làm cho quyền tự chủ
và trách nhiệm
giải trình trở thành sợi chỉ xuyên suốt
của hệ thống
quản trị và quản lý GDĐH
nước ta là nhiệm vụ quan trọng của việc đổi
mới trong tiến trình hoàn thiện dần nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
2. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ
CHỦ
CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Trong
các điều kiện để đảm bảo quyền tự chủ cho các trường ĐH, có lẽ có hai vấn đề
quan trọng nhất cần thảo luận: ở cấp độ cơ sở, là việc xây dựng và đảm bảo hoạt
động tốt các hội đồng trường (HĐT); ở
cấp độ hệ thống, là việc thay đổi thể chế
bộ chủ quản.
2.1. Về hội đồng trường
Về
HĐT, bạn đọc có thể tham khảo đầy đủ hơn ở [Lâm Quang Thiệp, 2013],
dưới đây chỉ nêu một số ý chính.
· Hai cơ chế trong một tổ chức
Để
đảm bảo sự phát triển lành mạnh của một tổ chức dân chủ, việc quản trị và quản
lý đòi hỏi đồng thời hai loại cơ chế: một cơ chế kiểu hội đồng để chỉ đạo hướng
phát triển, tức quản trị, và một cơ chế để điều hành việc thực hiện, tức quản
lý. Cơ chế thứ nhất bao gồm những người được bầu chọn, đại diện cho những nhóm
người có lợi ích liên quan (stakeholders), quan hệ với nhau bình đẳng theo chiều
ngang, chỉ đạo tổ chức bằng những nghị quyết của tập thể hội đồng. Cơ chế thứ hai có cấu trúc kiểu tập quyền, tầng
bậc (hierachical), quan liêu (bureaucratic), quan hệ theo kiểu trên dưới theo
chiều đứng (cấp trên cử người quản lý cấp dưới, cấp dưới tuân thủ cấp trên), điều
hành công việc bằng quyết định của cá nhân người phụ trách.
Trong
trường ĐH cơ chế thứ nhất chính là HĐT, cơ chế thứ hai là bộ máy lãnh đạo và quản
lý của hiệu trưởng. Các cơ chế quản trị và
quản lý này được rất nhiều chuyên gia quốc tế nghiên cứu, chẳng hạn [John Carver, Miriam Carver, 2006].
· Các chức năng và nhiệm vụ của HĐT
-
Làm cầu nối giữa chủ sở hữu cộng đồng (các
nhóm người có lợi ích liên quan) và nhà trường.
-
Xây dựng chính sách, kế hoạch tổng thể, sử
dụng chính sách làm công cụ để quản trị nhà trường.
-
Lựa chọn hiệu trưởng có năng lực đứng đầu
bộ máy điều hành;
-
Giám sát và đánh giá việc triển khai thực
thi của hiệu trưởng đối với các chính sách và kế hoạch tổng thể đã được HĐT đề
ra.
· Vai trò và nhiệm vụ của hiệu trưởng
-
Đứng đầu bộ máy điều hành, có trách nhiệm
tổ chức thực hiện đúng mọi chính sách và kế hoạch tổng thể mà HĐT đề ra;
-
Làm cầu nối giữa HĐT và mọi thành viên
trong trường.
-
Chịu trách nhiệm giải trình (đại diện cho
bộ máy) trước tập thể HĐT về các hoạt động của nhà trường, đảm bảo thành tựu của
các chính sách được đề ra và không vi phạm những giới hạn điều hành đã được quy
định.
· Quan hệ giữa hội đồng trường với hiệu
trưởng và các thành viên nhà trường
-
HĐT lãnh đạo và quản trị trường ĐH qua hiệu
trưởng chứ không trực tiếp tác động đến bộ máy của hiệu trưởng, được thực hiện
bằng nghị quyết của toàn thể HĐT chứ không phải từ các thành viên trong hội đồng.
Hiệu trưởng có trách nhiệm giải trình với tổng thể HĐT chứ không phải với từng
thành viên của hội đồng. Quan hệ giữa hiệu trưởng và các thành viên HĐT là quan
hệ cộng sự, ngang hàng chứ không phải trên dưới. Quan hệ giữa chủ tịch HĐT và
hiệu trưởng cũng là quan hệ ngang hàng, hỗ trợ nhau, chứ không phải trên dưới.
-
HĐT phải lãnh đạo chiến lược chứ không sa
vào các quyết định chiến thuật, do đó khi đã có chính sách và kế hoạch tổng thể,
HĐT phải trao quyền đầy đủ cho hiệu trưởng, không nên can thiệp vào việc điều
hành cụ thể của hiệu trưởng.
-
Để đảm bảo cho nhà trường được vận hành
như là một thực thể tự chủ và dân chủ, không nên để hai chức vụ này cho một người
kiêm nhiệm.
· Thực trạng về việc áp dụng thể chế
HĐT trong GDĐH nước ta
Cơ
chế HĐT đã được đưa vào Điều lệ trường ĐH của Việt Nam từ năm 2003 nhưng cho đến
năm 2010 trong cả nước chỉ khoảng 10 trường ĐH có HĐT. Lý do là phần lớn hiệu
trưởng trường ĐH và một số bộ phận quản lý ở các bộ chủ quản không mặn mà với
thể chế này. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này là vì đây là cơ chế tạo nên
sự di chuyển về quyền lực, không phải bộ phận nào trong hệ thống GDĐH cũng dễ
dàng chấp nhận và thích nghi với sự dịch chuyển ấy, nên có phản ứng không thuận
lợi ở nhiều cấp độ khác nhau. Các phản ứng
này có thể liên quan đến nhận thức, cũng có thể gắn với lợi ích.
Vấn
đề HĐT cũng là một trong các vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất khi xây dựng Luật
GDĐH. Sau khi được khẳng định trong Luật GDĐH năm 2012 và Điều lệ trường ĐH năm
2014, HĐT mới được thành lập trong nhiều trường ĐH. Tuy số lượng HĐT có tăng
nhưng tác dụng của HĐT cũng còn rất nhiều vấn đề, đó là các ý kiến được phản
ánh tại Hội thảo về vấn đề này của Hiệp hội các trường ĐH và CĐ Việt Nam vào
tháng 4 năm 2017 [Hội đồng trường…, 2017].
Tác
dụng rất hạn chế của HĐT có thể do các nguyên nhân sau đây:
-
Vị thế của chủ tịch HĐT phần lớn là thấp
hơn vị thế của hiệu trưởng.
-
Chưa có quan niệm thống nhất về chức năng
khác nhau của của Đảng ủy và của HĐT.
-
Cơ chế “bộ chủ quản” và “trường trực thuộc”
vô hiệu hóa tác dụng của HĐT.
Sau
đây xin phân tích rõ hơn tác động của hai nguyên nhân đầu, còn nguyên nhân thứ
ba sẽ đề cập sâu hơn ở phần 2.2.
Trong
Hội thảo của Hiệp hội các trường ĐH và CĐ Việt Nam đã nêu trên đây có nhiều ý
kiến nói đề về vị thế thấp của chủ tịch HĐT.
Từ thống kê của Bộ GD&ĐT vào tháng 3/2017 trong 16 chủ tịch HĐT của
các trường trực thuộc Bộ GD&ĐT có 12 người vốn là trưởng khoa hoặc trưởng
phòng của trường, 4 người vốn là phó hiệu trưởng. Rõ ràng “vị thế” thấp của chủ
tịch HĐT so với hiệu trưởng như vậy tất yếu ảnh hưởng đến “vị thế” của bản thân
HĐT.
Một
vấn đề cũng được nhiều người đặt ra khi bàn về chủ đề HĐT ở trường ĐH, đó là vấn
đề liên quan đến tổ chức Đảng trong nhà trường. Một lập luận phổ biến là, khi
đã nói Đảng lãnh đạo toàn diện thì không cần thiết HĐT, vì sự lãnh đạo của HĐT
sẽ chồng chéo với sự lãnh đạo của Đảng ủy trường ĐH. Tuy nhiên, có hai ý kiến
phản bác lại lập luận này. Một là, HĐT là đại diện của sở hữu cộng đồng, bao gồm
cả các phía có lợi ích liên quan cả ở bên trong và bên ngoài trường ĐH, còn Đảng
ủy chỉ đại diện cho tổ chức Đảng bên trong nhà trường. Hai là, HĐT là cơ quan
quyền lực, lãnh đạo cụ thể, còn Đảng ủy là cơ quan lãnh đạo về chính trị tư tưởng. Hơn nữa, trong một hội thảo về quản trị GDĐH,
một cán bộ cao cấp chuyên nghiệp của Đảng đã phân tích như sau: Đảng lãnh đạo dựa
vào hệ thống giá trị mà Đảng theo đuổi chứ không phải dựa vào sự áp đặt bằng
quyền lực. HĐT là một thực thể quyền lực. Sự lãnh đạo của Đảng ủy sẽ hỗ trợ những
quyết định đúng đắn của HĐT và ngăn chặn những quyết định không đúng đắn, do đó
sẽ tạo sự đồng thuận trong nhà trường để nhà trường phát triển tốt. Nếu Đảng ủy
dùng quyền lực của mình khi lãnh đạo trường ĐH thì sẽ dễ bị thoái hóa. Chính
trong thời kỳ hoạt động bí mật uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng rất cao vì
phong cách lãnh đạo dựa vào hệ thống giá trị nói trên chứ không dựa vào quyền lực.
Theo
quy định hiện hành trong HĐT có bí thư Đảng ủy. Bí thư là người sẽ đại diện của
tổ chức Đảng thông báo các chủ trương, nghị quyết của Đảng cho HĐT và thuyết phục
để HĐT thực hiện các chủ trương, nghị quyết đó. Một giải pháp khác có thể thực
hiện là cử bí thư Đảng ủy làm chủ tịch HĐT. Ở nước ta đã có nơi áp dụng giải
pháp này, như ĐH Mở Hà Nội. Đây cũng là giải pháp của nhiều trường ĐH Trung Quốc.
2.2. Về thể chế “bộ chủ quản” và “trường
trực thuộc”
Bộ
chủ quản của các trường ĐH công lập dưới thời kế hoạch hóa tập trung có quyền
quyết định mọi vấn đề của trường ĐH, còn cơ quan điều hành trường ĐH phải thực
hiện mọi việc theo quyết định “từ trên”. Trong quá trình đổi mới GDĐH, cơ chế
quản lý đó cũng được cải tiến dần, trường ĐH được dần dần giao quyền tự chủ về
nhiều mặt. Tuy nhiên, cho đến nay, hai lĩnh vực quyết định quan trọng nhất
trong hoạt động của trường ĐH trực thuộc phần lớn vẫn nằm trong tay bộ chủ quản,
đó là tài chính và nhân sự. Cụ thể là,
kinh phí hàng năm cho các trường ĐH do Bộ chủ quản phân phối sau khi Bộ nhận từ
ngân sách nhà nước, các nhân sự quan trọng nhất của trường ĐH, trong đó có hiệu
trưởng, hiệu phó, do bộ chủ quản bổ nhiệm và miễn niệm. Bộ chủ quản có cơ chế
kiểm soát trường trực thuộc về nhiều mặt, và trường trực thuộc có trách nhiệm
báo cáo việc thực hiện công việc với Bộ chủ quản. Trường ĐH không có quyền tự
quyết định đối với nhiều vấn đề, điều đó làm cho sự đáp ứng đối với các biến
động của thị trường thường không được nhanh nhạy, các trường khó thích nghi với
thị trường.
Nhận
thấy sự cản trở đó của cơ chế bộ chủ quản, trong Nghị quyết 14/2005/NQ-CP năm
2005 của Chính phủ về đổi mới GDĐH đã đưa
ra chủ trương “Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà
nước đối với các trường ĐH công lập”.
Cho
đến nay quy định trong Nghị quyết 14 năm 2005 về “xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản”
vẫn chưa được thể chế hóa cụ thể. Gần đây, Nghị quyết 89/NQ-CP ngày 10/10/2016
của Chính phủ lại nói rõ là cần phải:
“giảm mạnh sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản đối với hoạt động
của các trường đại học, tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản; đổi mới mô hình quản
trị đại học theo hướng chuyển từ chế độ thủ trưởng (hiệu trưởng) sang chế độ
tập thể lãnh đạo (HĐT)”. Các ý tưởng rất
rõ này cần được cần thể chế hóa và đưa vào Luật GDĐH sửa đổi.
Ngoài ra, cần rà soát hệ thống các văn bản
luật và dưới luật có liên quan tới bộ chủ quản và có phương án chỉnh sửa những
quy định không tương thích. Có thể dẫn một trong những ví dụ về sự không tương
thích đó ở Quyết định 7939/QĐ-BGĐT ngày 20/11/2008 quy định về quyền của Vụ Tổ
chức Cán bộ trong việc đề cử hiệu trưởng các trường ĐH trực thuộc Bộ GD&ĐT.
Có thể tìm thấy các quy định tương tự của các bộ ngành khác.
Tất
cả các khuyến nghị được đề xuất trên đây là không đơn giản, động đến cả hệ
thống tổ chức và quản lý GDĐH hiện có ở nước ta, do đó muốn thực hiện được phải
có quyết tâm của cấp quản lý cao nhất trong hệ thống. Nếu những người lãnh đạo thấy rõ vấn đề và có
quyết tâm chính trị cao, nếu cộng đồng GDĐH kiên trì đấu tranh để những thể chế
mới và đúng đắn được xác lập thì có thể hy vọng chúng ta sẽ xây dựng được một
hệ thống GDĐH phát triển nhanh và lành mạnh, đóng góp cho sự phát triển bền vững
của đất nước.
3. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM
GIẢI TRÌNH
CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
3.1. Trách nhiệm giải trình với ai?
Như
đã nói ở phần 1, Khi có quyền tự chủ, trường ĐH đồng thời phải thực hiện trách
nhiệm giải trình. Giải trình với ai?
Theo quan niệm của cộng đồng GDĐH thê giới, giải trình đối với các phía có lợi ích liên quan (stakeholders) với trường ĐH, lần lượt là: Nhà nước,
nhà tài trợ, sinh viên, phụ huynh sinh viên, giáo chức, những người sử dụng sản
phẩm của trường ĐH, và xã hội nói chung.
Như
vậy, phạm vi của đối tượng giải trình rất rộng, phải có cơ chế rõ ràng để thực
hiện trách nhiệm giải trình đó.
3.2. Một vài biện pháp thực hiện
trách nhiệm giải trình
· Hệ thống đảm bảo chất lượng
Một thể chế hết sức quan trọng để thực
hiện trách nhiệm giải trình của trường ĐH là hệ thống đảm bảo chất lượng (quality assurance) cho GDĐH. Trong
từng trường ĐH, hệ thống này đảm bảo cho mọi khâu của hệ thống đào tạo và các
hoạt động khác của nhà trường được thực hiện một cách đúng đắn như đã cam kết
hoặc đã được quy định. Gắn liền với hệ thống này, quy trình kiểm định công nhận (accreditation)
xuyên suốt từ hoạt động tự đánh giá, khảo sát tại chỗ của đồng nghiệp và quyết
định công nhận chất lượng của các cơ quan kiểm định độc lập sẽ hỗ trợ cho nhà
trường giải trình các hoạt động của mình cho các nhóm người có lợi ích liên
quan và cho xã hội.
Sau khi chính thức đưa hoạt động đảm
bảo chất lượng vào hệ thống GDĐH từ năm 2003, trong mấy năm qua Bộ GD&ĐT đã
thực hiện một số cải tiến đối với hệ thống đảm bảo chất lượng và quy trình kiểm
định công nhận chất lượng. Các cải tiến đáng ghi nhận là việc cấp phép thành
lập các trung tâm kiểm định chất lượng độc lập và việc đưa vào một quy trình rõ
ràng và một hệ thống tiêu chuẩn toàn diện (25 tiêu chuẩn, 111 tiêu chí) để kiểm
định công nhận chất lượng theo thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT.
Triển
khai thực hiện nghiêm túc hệ thống đảm bảo chất lượng và quy trình kiểm định
công nhận chất lượng chính là yếu tố quan trọng nhất để thực hiện trách nhiệm
giải trình của trường ĐH.
· Thực hiện “ba công khai”
Trực tiếp liên quan với trách nhiệm giải trình
và hệ thống đảm bảo chất lượng, trong nhiều năm qua Bộ GD&ĐT phát động và
triển khai thực hiện “ba công khai” đối với các trường ĐH. Nộidung của ba công
khai là: công khai cam kết chất lượng giáo dục và đào tạo, các điều kiện đảm bảo
chất lượng và thu chi tài chính. Gần đây Bộ GD&ĐT đã ra thông tư số 36/2017/TT-BGDĐT quy định tỷ mỉ về quy
trình ba công khai, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục thực hiện đầy đủ quy
trình này.
***
Tóm lại, cặp khái niệm “quyền tự chủ”
và “trách nhiệm giải trình” phản ánh một cách hàm xúc nội dung cốt lõi của hệ
thống quản trị và quản lý GDĐH trong nền kinh tế thị trường. Để thực hiện quyền
tự chủ của cơ sở GDĐH, cần thành lập HĐT với ý nghĩa là cơ quan quản trị có quyền
lực cao nhất nhà trường, đảm bảo triển khai hoạt động của HĐT thật sự có hiệu
quả, đồng thời tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế bộ chủ quản và trường trực thuộc.
Khi thực thi quyền tự chủ, trường ĐH đồng
thời phải tuân thủ trách nhiệm giải trình đầy đủ, trong đó có việc xây dựng hệ
thống đảm bảo chất lượng toàn diện, bao gồm việc nghiêm túc tuân thủ quy chế ba
công khai.
Hy vọng hệ thống GDĐH nước ta sẽ phát
triển bền vững khi thực hiện hài hòa hệ thống quản trị và quản lý nói trên.
Hà
Nội, 9/2018
_______________________
TÀI LIỆU DẪN
1.
The History of
Higher Education, 1997. ASHE Reader Series, Simon & Schuster Custom
Publishing.
2.
Malcolm Frazer, 1994. "Quality in Higher Education: An International Perspective"-
trong : "What is Quality in Higher Education?", edited by Diana
Green. Society for Research into Higher Education & Open University Press,
London.
3.
John Carver, Miriam Carver, 2006.
Reinventing Your Board. Jossey-Bass Publishers.
4.
Lâm Quang Thiệp, 2013. "Hội đồng trường trong
các cơ sở giáo dục đại học công lập nước ta". Báo cáo thường niên giáo dục Việt Nam. NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
- Hội đồng trường - Khâu đột phá trong
việc thực hiện tự chủ đại học,
2017. Tài liệu hội thảo của Hiệp hội các trường ĐH và cao đẳng
Việt Nam, tháng 4/2017.
___________________________
*)
Cặp khái niệm sóng
đôi autonomy và accountability đã được thừa nhận rộng rải trong cộng đồng GDĐH thế
giới, nhưng là các khái niệm tương đối mới ở nước ta, do đó Luật Giáo dục đầu
tiên của nước ta ra đời vào 1998 đã “dịch” khái niệm sau là “tự chịu trách
nhiệm”. Thực ra khái niệm accountability nói lên trách nhiệm giải
trình của trường ĐH đối với các “nhóm người có lợi ích liên quan”
(“stakeholders”, thường là: người cung cấp tài chính cho nhà trường - nhà nước,
nhà tài trợ -, sinh viên, phụ huynh sinh viên, giáo chức, các đối tượng sử dụng
sản phẩm của trường đại học, địa phương gắn với địa bàn phục vụ chính của
trường…). Theo nội dung đó, thuật ngữ “tự chịu trách nhiệm” không nói hết ý
nghĩa của khái niệm mà đôi khi bị hiểu ngược lại. Thuật ngữ accountability nên
được dịch chính xác là “trách nhiệm giải
trình”.
Qua rất nhiều lần
đề nghị của tác giả cùng nhiều chuyên gia GDĐH khác, hy vọng trong Luât GD và
Luật GDĐH sửa đổi vào cuối năm nay cụm từ “tự chịu trách nhiệm” sẽ được thay
thế bằng cụm từ “trách nhiệm giải trình”.
Nhận xét
Đăng nhận xét