VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA NHÀ GIÁO ĐẠI HỌC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA NHÀ GIÁO ĐẠI HỌC
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Tham luận tại Hội thảo
"Người thầy trong Giáo dục đại học của thời kỳ hội nhập"
tại Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông",
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Tham luận tại Hội thảo
"Người thầy trong Giáo dục đại học của thời kỳ hội nhập"
tại Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông",
Tuy Hòa, Phú Yên, 15/12/2019
LÂM
QUANG THIỆP
Bài
viết này trình bày về các đặc trưng của thời kỳ hội nhập, các cuộc cách mạng
giáo dục cùng với vai trò và vị trí của nhà giáo đại học trong thời ký hội nhập.
1.
Các
đặc trưng của thời kỳ hội nhập
Thời
kỳ hội nhập, xem như bắt đầu từ khi chuyển giao thiên niên kỷ, được đặc trưng bởi
việc toàn cầu hóa về chính trị, xã hội và cuộc cách mạng thông tin truyền thông
(ICT) hoặc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 .
Về
“toàn cầu hóa” (globalisation), như nhiều người chỉ rõ, đó là một xu hướng của
cuộc sống, nó tất yếu xảy ra dù ta có muốn hay không [Higher
Education, 2000], nên tốt nhất là chúng ta hãy đón lấy
nó, khai thác thuận lợi và hạn chế bớt thiệt hại mà nó đem lại.
Cũng từ khoảng đầu
thế kỷ 21 sự phát triển nhảy vọt của công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) đang
thúc đẩy cuộc CMCN 4.0 với nền sản xuất thông minh. Công nghệ số phát triển qua
nhiều giai đoạn khác nhau, và ngày nay đạt đến thời kỳ chuyển đổi số (digital
transformation). Chuyển đổi số là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để
thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh
tế xã hội, làm cho cuộc sống và công việc của con người tốt đẹp và hiệu quả
hơn. Liên quan đến công nghệ số hiện đại, một loạt loại hình công nghệ mới ra đời:
Dữ liệu lớn (Big-Data), Internet Vạn vật (Internt of Things), Chuỗi-khối (Blockchain),
Học máy (Machine learning - một bộ phận của Trí tuệ nhân tạo)… [Hồ Tú Bảo, 2019
]
2.
Sự
thay đổi giáo dục đại học trong thời kỳ hội nhập
·
Sự
thay đổi mục tiêu giáo dục đại học
Giáo dục nói
chung, và giáo dục đại học (GDĐH) nói riêng, có rất nhiều thay đổi trong thời kỳ
hội nhập. UNESCO là cơ quan có tổ chức nhiều nghiên cứu về xu hướng đổi mới của
GDĐH trên thế giới trong thời kỳ chuyển giao thiên niên kỷ. Về triết
lý về giáo dục cho thế kỷ 21,
UNESCO
đã xác định, đó là lấy "học thường xuyên suốt đời"
làm nền móng, dựa trên các mục tiêu tổng quát, 4 trụ cột của việc học, là
"học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để
làm người", nhằm hướng tới xây dựng một "xã hội học tập” [Delors J., 1996].
Báo
cáo tổng hợp của UNESCO năm 2003 có phân tích rõ những thay đổi mạnh mẽ về bản
chất và nhu cầu của thế giới việc làm, và trình bày khái quát các tiềm năng mà trường đại học cần tạo
cho sinh viên sao cho họ có thể đương đầu với những đòi hỏi của xã hội tri thức.
Đó là:
(i) các
tiềm năng học thuật [academic capacities]
(chủ yếu dựa trên việc đào tạo chuyên môn, nhưng cần lưu ý đến tư duy phê phán,
giải quyết vấn đề, có năng lực đổi mới tư duy [un-learn] và học lại [re-learn]
trong suốt cuộc đời);
(ii) các kỹ năng phát triển cá nhân gắn kết với xã hội
(personal and social development skills): tự tin, quyết
tâm cao, tôn trọng các giá trị đạo đức, hiểu biết rộng về xã hội và thế giới;
và
(iii) các kỹ năng sáng nghiệp [entrepreneurial skill]
(các tiềm năng đáp ứng cả việc lãnh đạo và làm việc đồng đội, làm chủ công
nghệ thông tin truyền thông và các công nghệ khác, tạo thuận lợi để tìm và tạo
việc làm) [Synthesis Report..., 2003].
Trên
cơ sở các yêu cầu khái quát đối với sản phẩm đào tạo đại học mà UNESCO đã tổng
kết, chúng ta có thể cụ thể hoá mục tiêu đào tạo mới đối với sinh viên đại học
nước ta và làm sáng tỏ hơn những khiếm khuyết cả về mặt quan niệm và về hành động
thực tế của các nhà giáo đại học nước ta.
-
Trước hết có thể thấy rằng các trường đại học nước ta vốn thường lưu ý đến việc
trang bị nhóm tiềm năng thứ nhất cho sinh viên mà không chú ý đúng mức đến hai
nhóm tiềm năng sau. Ngay trong nhóm tiềm năng thứ nhất, nội dung và phương pháp
dạy và học hiện tại ở nước ta thường cũng chỉ mới phát triển được các năng lực
nhận thức cấp thấp, nhận biết (knowledge) và thông
hiểu (comprehension)
[Bloom B., 1956], chưa tập trung đúng mức đến việc phát triển óc phê phán, khả năng giải quyết vấn đề. Ngoài ra, sự phát triển thông tin và
tri thức cực kỳ nhanh chóng, vòng đời của các loại công nghệ rất ngắn ngủi của
thời đại kinh tế tri thức còn đòi hỏi phải nhấn mạnh ở đây khả năng đổi mới tư duy, xóa những nếp nghĩ sai
trái đã học được trước đây thay thế bằng những tư duy mới (un-learn) và luôn
luôn bổ sung, cập nhật
kiến thức mới (re-learn). Tất cả tiềm năng để
học tập đã nêu mà sinh viên rèn luyện được trong thời gian học đại học sẽ giúp
cho việc học tập trong suốt cuộc đời của họ, còn tri thức mà họ thu nhận được
chỉ có thể sử dụng trong một thời gian ngắn. Từ đó có thể thấy rõ cách học quan trọng hơn nhiều so với kiến
thức. Hơn nữa, cần lưu ý thêm là họ biết cách học chưa đủ, mà họ phải tự tạo
nên được thói quen và niềm say mê học suốt đời, tức là bản
thân nhóm tiềm năng thứ nhất liên quan đến cả tri thức cũng như tình cảm, thái
độ mà sinh viên đạt được qua quá trình học tập.
- Nhóm tiềm năng thứ hai liên quan nhiều đến tính nhân văn của sản phẩm đào tạo: sản
phẩm phải là những công dân-trí thức
của đất nước, có phẩm chất và trách nhiệm công dân, có hiểu biết và tầm nhìn rộng
đối với xã hội và thế giới. Ở nước ta trong giai đoạn hiện tại trách nhiệm công
dân này biểu hiện ở sự quyết tâm đóng góp vào việc đưa đất nước ta thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
-
Nhóm tiềm năng thứ ba thể hiện rõ yêu cầu đối với một người hoạt động trong một
nền kinh tế thị trường, cần các kỹ năng để khẳng định mình, để tồn tại, đồng thời
để cạnh tranh nhằm phát triển. Cần hết sức lưu ý đến kỹ năng làm việc đồng đội và kỹ năng lãnh đạo, tức là khả năng thuyết
phục đồng đội làm việc theo đề xuất của mình, và khả năng hoà
mình với đồng đội trong công việc. Với các kỹ năng này sản phẩm đào tạo sẽ có
nhiều thuận lợi khi tìm cho mình một việc làm thích hợp, tức lập nghiệp, cũng
như khi tạo ra việc làm mới cho mình và cho nhiều người khác, tức sáng nghiệp.
·
Sự thay đổi phương
pháp giảng dạy đại học
Để
nói về phương pháp giảng dạy đại học, trước hết
xin nêu ngắn
gọn một quan niệm
về HỌC [Develay M.,
1994] :
Học là
quá trình tự
biến đổi mình
và làm
phong phú mình bằng
cách chọn
nhập và xử lý thông tin lấy
từ môi trường
xung quanh.
Và, từ quan niệm về HỌC, theo một cách
suy luận tự nhiên, có thể đưa ra một quan niệm sóng đôi với nó về DẠY [Lâm Quang Thiệp, 2000]:
Dạy là
việc giúp cho người
học tự
mình chiếm
lĩnh những
kiến thức,
kỹ năng
và hình thành
hoặc biến đổi những
tình cảm,
thái độ.
Từ
các quan niệm đó, và phù hợp với yêu
cầu về mục tiêu GDĐH vừa phân tích trên, yêu cầu về nội dung và phương
pháp dạy học trong thời kỳ hội nhập của GDĐH nước ta là gì?
Với
sự tiến bộ phi thường của khoa học và công nghệ và đặc biệt của ICT, người ta
đã đánh giá rằng khối lượng thông tin và tri thức đã và đang tăng theo hàm mũ.
Trong tình hình đó, cách học nói chung và đặc biệt là cách học ở đại học không
thể giữ nguyên như khoảng nửa thế kỷ trước đây. Nếu trước kia người ta có thể sử
dụng thời gian 4, 5 năm đại học để trang bị một vốn tri thức về một nghề nghiệp
cao cấp nào đó cho một sinh viên để anh ta sử dụng hầu như trong cả cuộc đời
hành nghề của mình, thì ngày nay điều đó là hoang tưởng. Với tốc độ phát triển
nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, vòng đời của mọi công nghệ đều rất ngắn, tri
thức tiếp thu được qua mấy năm học ở đại học lạc hậu rất nhanh. Nếu vẫn tập
trung vào mục tiêu trang bị tri thức, thì dù có kéo dài bao nhiêu lần thời gian
học ở đại học cũng không giải quyết được mâu thuẫn đã nêu. Trong trường hợp đó,
không có cách nào khác là chỉ trang bị kiến
thức nền tảng, kỹ năng cơ bản và dạy cách học cho sinh viên, tạo cho họ
khả năng, thói quen và niềm say mê học tập suốt đời.
Nội dung cần thiết để dạy một môn học nào đó ở đại học
thường là mênh mông, nhưng thời gian hết sức giới hạn. Phương pháp dạy và học
cũng thường có rất nhiều và rất đa dạng, có thể tìm trong nhiều sách và tạp chí
nghiên cứu về giáo dục. Do vậy, chúng tôi cho rằng ở đây không thể khuyến cáo
các nội dung nào cần được lựa chọn, cũng không nên và không thể khuyến cáo một
danh mục cụ thể các phương pháp dạy và học, mà chỉ nên bàn về các tiêu chí mà ta có thể dựa vào đó để
lựa chọn nội dung và phương pháp.
3 tiêu chí quan trọng sau đây được đề nghị để lựa chọn nội dung và phương pháp dạy và học ở đại
học
[Lâm Quang Thiệp, 2005].
- Trước hết cần quan niệm việc dạy
cách học, học cách học để
tạo thói quen, niềm say mê và khả năng học suốt đời là tiêu chí bao quát nhất của việc dạy và học ở đại học. Mọi phương
pháp dạy, phương pháp học, nội dung cần dạy, nội dung cần học đều phải xuất
phát từ đó. Chẳng hạn, trong chương trình đào tạo đại học phải chú trọng kiến thức nền tảng chứ không phải kiến
thức về một quy trình cụ thể, vì kiến thức nền tảng tạo cho người học một cái nền
vững chắc để tiếp tục học tập những thứ cụ thể khác. Cũng vậy, kỹ năng cơ bản là công cụ để học suốt đời
(chẳng hạn, kỹ năng đọc hiểu, kỹ năng về một ngoại ngữ quan trọng,… chứ không
phải kỹ năng sử dụng một cái máy cụ thể, kỹ năng thao tác một quy trình cụ thể).
Trong từng lĩnh vực, từng môn học có mênh mông các nội dung, các vấn đề để học,
người giảng viên phải biết chọn nội dung gì, vấn đề gì mà khi học thì học viên
được rèn luyện năng lực tư duy cao cấp, được học cách học tốt nhất. Ngoài ra, bằng cách khêu gợi sự tò mò, bằng
cánh tạo sự hấp dẫn của tri thức và bằng tấm gương học tập của mình, giảng viên
cố gắng tạo nên niềm say mê học tập
cho học viên.
- Tiếp đến, tính chủ động của người học
là tiêu chí về phẩm
chất quan trọng cần tập trung phát huy khi dạy và học ở đại học. Rõ ràng quan niệm này
về học là rất
rộng và rất khái quát, cho thấy rõ tính cá nhân của việc học. Người thầy trong quan niệm này ở vị trí ẩn,
tác động bằng cách giúp người học chọn nhập và xử lý thông tin.
- Trong
thời kỳ đầu của CMCN 4.0, tận dụng ICT là tiêu chí quan trọng về công cụ cần triệt để khai
thác khi dạy và học ở đại học. Còn ở thời
kỳ chuyển đổi số (digital transformation) hiện nay, theo chúng tôi, nói ngắn gọn, phương pháp dạy
học đại học có thể thể hiện ở hai khía cạnh: một là tận dụng khai thác những ưu thế của thời chuyển đổi
số; hai là tìm cách thích nghi với những
thành tựu của thời chuyển đổi số.
Tóm lại, trong bối cảnh của thời kỳ hội
nhập, 3 tiêu chí quan trọng có
tính nguyên tắc cần dựa vào khi lựa chọn nội dung và phương pháp dạy và học
cho từng trường hợp cụ thể, đã được nêu trong Nghị quyết 14
của Chính phủ về GDĐH khi nói về phương pháp dạy và học [Nghị quyết 14, 2005],
vẫn còn tính thời sự:
-
Tiêu chí bao
quát nhất là tập trung
chú ý vào CÁCH HỌC;
-
Phẩm chất cần phát huy mạnh mẽ là tính CHỦ ĐỘNG của người học;
-
Công cụ cần khai thác triệt để là CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG.
Để dễ nhớ, có thể gọi đây là hệ tiêu chí 3C để
lựa chọn phương pháp dạy và học ở đại học cho từng trường hợp cụ thể trong thời
kỳ hội
nhập.
3. Vai trò và vị trí của nhà giáo đại học
trong thời kỳ hội nhập
·
Về các mô hình
giáo dục và các cuộc cách mạng giáo dục
Dựa vào các cách tiếp cận thông tin, UNESCO đã phân chia thành 3 mô hình
giáo dục nêu ở Bảng 1 [Higher Education, 1998].
Bảng 1. Phân loại các mô hình giáo dục
dựa
trên các công nghệ cơ bản theo cách tiếp cận thông tin
trên các công nghệ cơ bản theo cách tiếp cận thông tin
Mô hình
|
Trung tâm
|
Vai trò người học
|
Công nghệ cơ bản
|
Truyền thống
|
Người dạy
|
Thụ động
|
Bảng/TV/Radio
|
Thông tin
|
Người học
|
Chủ động
|
PC
|
Tri thức
|
Nhóm
|
Thích nghi
|
PC + mạng
|
Trong các mô hình được trình bày, mô hình “tri thức” là mô hình giáo dục
hiện đại nhất, hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của ICT -
mạng Internet. Cùng với mô hình mới nhất này xuất hiện nhiều biến đổi sâu sắc
trong giáo dục, đặc biệt là những cơ cấu cứng nhắc theo truyền thống về mối quan hệ
“không gian - thời gian - trật tự thang bậc” sẽ bị phá vỡ.
Trong lịch sử loài người, người ta thường nhắc đến các
cuộc cách mạng giáo dục sau đây. Cuộc cách mạng lần thứ nhất xảy ra từ thời cổ xưa, khi loài người phát minh ra
ngôn ngữ viết, với ngôn ngữ đó loài người có thể lưu giữ thông tin và khôi phục
lại được không cần dựa vào trí nhớ. Cuộc cách mạng lần thứ hai xảy ra khi loài người phát minh ra công nghệ in vào
khoảng giữa thế kỷ XI ở Trung Quốc và giữa thế kỷ XV ở châu Âu. Với công nghệ
này thông tin từ sách có thể phổ biến nhanh hơn và rộng hơn trước nhiều. Cuộc
cách mạng lần thứ ba xảy ra cùng với
sự xuất hiện ICT, công nghệ này làm tăng vượt bậc tốc độ phổ biến thông tin và
tri thức.
Cuộc cách mạng giáo dục lần thứ ba đã dẫn đến mô hình
“tri thức” trong giáo dục như đã nêu. Có thể xem xét tỷ mỷ hơn về sự thay đổi
vai trò của người dạy và người học trong mô hình đó, được trình bày ở Bảng 2 và
Bảng 3 [Resta, UNESCO, 2010]:
Bảng 2. Sự thay đổi vai trò của người dạy
Từ
|
trở thành
|
|
-
Người chuyển giao tri thức;
-Nguồn thông tin quan trọng nhất; -Kiểm tra, điều khiển toàn diện việc học. |
-
Người thúc đẩy, cộng tác, hướng dẫn; người cùng học;
- Dành cho người học nhiều lựa chọn và để họ có trách nhiệm đối với việc học của riêng họ. |
Bảng 2 cho thấy người dạy không còn
là người có uy quyền và hiểu biết mọi thứ, mà vai trò của họ giống như là một
người hướng dẫn của một nhóm hoặc điều khiển một dàn nhạc sao cho mọi nhạc công
đều chơi tốt nhất.
Bảng
3. Sự thay đổi vai trò của người học
Từ
|
trở thành
|
|
-Thu nhận thụ động thông tin;
-Tái tạo tri thức; -Học đơn độc. |
-Tham gia tích cực trong quá trình
học tập;
-Sáng tạo tri thức; -Học cộng tác với người khác. |
Bảng 3 cho thấy người học trong lớp
giống như là đang tham gia các cuộc tham quan tập thể ảo, cũng giống như là
những người nghiên cứu tích cực, tìm kiếm thông tin trên mạng để hoàn thành các
dự án của cá nhân hoặc của nhóm, giao tiếp qua e-mail, blog hoặc các mạng xã
hội với các giảng viên và sinh viên ở các trường khác, và sẽ đạt được kết luận
dựa trên các chứng cứ thu nhận được.
·
Đáp ứng với sự
thay đổi của vai trò của nhà giáo đại học
Công nghệ trong thời chuyển đổi số đang tạo
nhiều cơ hội cho nhà giáo đại học, nhưng cũng đặt họ trước những thách thức mới.
Vậy, nhà giáo đại học phải làm gì trước tình hình đó?
Để đáp ứng những thách thức đó, theo chúng tôi, nhà
giáo đại học phải thể hiện ở hai khía cạnh: một là tận dụng khai thác những ưu thế của thời chuyển đổi
số; hai là tìm cách thích nghi với những thành tựu của thời chuyển đổi số.
v
Khai
thác ưu thế của thời chuyển đổi số: Trong những năm qua trên
thế giới đã ra đời nhiều hoạt động, mô hình nhằm khai thác những ưu thế của
chuyển đổi số để triển khai GDĐH. Các sáng kiến nổi bật là OCW (Giáo
trình mở - OpenCourseWare) được phổ biến vào đầu thập niên
thứ nhất và MOOC (khóa học trực tuyến-mở đại trà - massive
open online course) phổ biến vào đầu thập niên thứ hai của Thế kỷ 21,
và việc xuất hiện nhiều cyber university
trong vài thập niên qua. Nhiều nước đã sử dụng OCW, bản địa hóa các MOOC và xây
dựng nhiều cyber universities.
Để khai thác ưu thế của thời chuyển đổi số, GDĐH nên cung cấp những nhận
thức về việc chuyển đổi số và chuẩn bị kỹ năng lao động mới; rèn
luyện tư duy và phương pháp làm việc dựa vào dữ liệu (data-driven), đồng thời
thay đổi chương trình đào tạo sao cho phù hợp với nền kinh tế số, chính phủ số,
xã hội số.
v Thích nghi với những thành tựu của thời
chuyển đổi số: Nếu
việc khai thác ưu thế của thời chuyển đổi số không đơn giản, thì sự thích nghi
với những thành tựu của nó cũng rất phức tạp. Muốn thích nghi tốt phải xây dựng
lại hoặc điều chỉnh mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học trong GDĐH.
Háy thử xét một
khía cạnh. Có thể nói công nghệ cao nhất thời chuyển đổi số là trí tuệ nhân tạo.
Với thành tựu của trí tuệ nhân tạo và công nghệ học máy, người ta có thể thiết
kế ra các robot làm được rất nhiều việc khác nhau, và trong lĩnh vực giáo dục,
có thể tạo nên các robot dạy học. Vậy
thì trong thời đại chuyển đổi số, việc dạy và học, nói ngắn gọn, cần được thay
đổi theo hướng “phải dạy học sao cho khác
và hơn robot”.
Nếu
dạy học theo kiểu cung cấp thông tin, “thầy đọc – trò chép” thì rõ ràng robot
làm tốt hơn nhà giáo bình thường rất nhiều. Lựa chọn các tiêu chí về phương
pháp dạy học 3C được nêu trong mục 2 chính là một cách thích nghi với thời chuyển
đổi số.
·
Khẳng định vị
trí của nhà giáo đại học
Như đã nói, nhà
giáo đại học hiện nay không còn là người truyền thụ kiến thức, mà là người hỗ trợ hướng dẫn tìm, chọn và xử lý thông tin. Để nhấn mạnh sự thay đổi vai trò của nhà
giáo đại học, trong nhiều tài liệu nước ngoài người ta đề nghị thay từ instructor (người dạy) bằng facilitator (người thúc đẩy). Từ đó có người hỏi: vậy thì vị trí của nhà giáo trong thời đại mới như thế nào, họ có bị “ra rìa”
không, câu ngạn ngữ “không thầy đố mày làm nên” của dân ta có còn đúng nữa không?
Chúng
tôi cho rằng vai trò của nhà
giáo đại học thay đổi, nhưng
vị
trí của
nhà
giáo hoặc
là
không đổi,
hoặc
là
được
nâng cao hơn
so với
trước
đây,
nếu
nhà
giáo thoả mãn được
những
đòi
hỏi
của
thời
đại
mới.
Thật vậy, trong khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục từ xa, Hội nghị Paris về GDĐH cho rằng trong giáo dục phương thức giáo dục mặt
đối
mặt
vẫn chiếm vị trí hàng đầu, tác dụng của sự tương
tác trong việc
dạy và học luôn luôn được nhấn mạnh. Trong mối tương
tác đó, vị trí của một đối tác có bề dày về kinh nghiệm sống, kinh nghiệm chọn nhập và xử lý thông tin sẽ nổi trội, sự đóng góp của đối tác đó trong quá trình học sẽ rất lớn không phải bằng sự độc quyền có tính đẳng cấp về thông tin và tri thức, mà bằng trí tuệ và sự từng trải của mình. Nhà giáo đại học có thể và cần phải khẳng định vị trí của mình trong các mối tương tác đó.
Nhà giáo đại học hiện nay có sứ mạng đi đầu để chuẩn bị cho cuộc cách mạng thực sự về giáo dục như đã dự báo. Vai trò tiên phong
đó sẽ nâng vị trí của nhà giáo đại học lên rất nhiều so với trước đây. Với cơ hội mà ICT đưa lại, những kinh nghiệm và ý tưởng sáng tạo thật sự có giá trị của bất kỳ một cá nhân nhà giáo nào cũng dễ dàng được truyền bá rộng rãi đến số lượng người học đông hơn nhiều so với trước đây, không chỉ giới hạn trong bốn bức tường lớp học mà có thể lan rộng ra cả nước và thậm chí vượt qua mọi biên giới quốc gia, điều đó làm cho vị trí của nhà giáo đại học thật sự được nâng lên cao hơn nhiều so với trước đây.
Rõ ràng là vị trí của nhà giáo đại học trong thời đại thông tin không hề giảm, và có cơ hội tăng lên. Tuy nhiên việc có giữ vững và nâng cao được vị trí đó hay không còn tuỳ thuộc vào sự phấn đấu của bản thân từng nhà giáo để đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Chúng ta có thể hy vọng, trước những cơ hội và thách thức của thời đại hội nhập, đa số nhà giáo đại học chúng ta sẽ không bị “ra rìa”.
Hà Nội, 9/2017 – 12/2019
♦
TÀI LIỆU DẪN
- Higher Education in the Twenty-first Century - Vision and Action. 2000. World Conference on Higher Education. UNESCO Paris. October 1998.
2.
Hồ Tú Bảo, 2019. Một số ý
tưởng trong phần này được trích dẫn từ bài thuyết trình của GS.TS. Hồ Tú Bảo tại
trường Đại học Thăng Long ngày 18/5/2019.
3. Jacques Delors,1996, “Learning: The Treasure Within”, (Report to UNESCO of the
International Commission on Education for the Twenty-first Century), UNESCO,
Paris; (Bản dịch tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2002, 2003).
4. Synthesis
Report on Trends and Development in Higher Education since
the World Conference on Higher Education (1998 - 2003), UNESCO Paris, 2003.
5.
Bloom B. S.,
1956. Taxonomy of Educational Objectives: The
Classification of Educational Goals. Handbook 1. Cognitive Domain. New
York, McKay.
6.
Michel Develay, 1994. Peut-on Former les enseignants?, ESF Editeur, Paris.
7.
Lâm Quang Thiệp, 2000. Việc dạy và học ở đại học và vai trò của nhà
giáo đại học trong thời đại thông tin, Giáo dục học Đại học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
8.
Lâm Quang Thiệp, 2005. Về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học ở các
trường đại học nước ta trong thời kỳ mới, Tạp chí Giáo dục, số 120,
6/2005.
9.
Resta,
P. & Patru, M. , 2010. Teacher Development in a
E-learning Age: A Policy and Planing Guide. Pariss, UNESCO.
____________________________________________
Nhận xét
Đăng nhận xét