VỀ MỘT SỐ MÔ HÌNH CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP TRONG MẠNG LƯỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
VỀ MỘT SỐ MÔ HÌNH CƠ SỞ
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VÀ GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
TRONG MẠNG LƯỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
VÀ GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
TRONG MẠNG LƯỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
GS.TSKH. LÂM QUANG THIỆP
Trường Đại học Thăng Long
Trường Đại học Thăng Long
(Trình bày tại Hội thảo “Tài cấu trúc hệ thống Giáo dục đại học
và Giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam cho các thập niên đầu thế kỷ 21”-
Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam, 12/06/2019)
Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam, 12/06/2019)
TÓM
TẮT
Bài
viết khảo sát ba nhóm mô hình quan trọng và có nhiều vấn đề trong mạng lưới cơ
sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp nước ta: các đại học đa lĩnh vực,
các cao đẳng/đại học cộng đồng và các đại học mở. Trong phần 1, ở mỗi nhóm mô
hình, bài viết trình bày về xu hướng thế giới, về việc triển khai chúng ở nước
ta từ khi bắt đầu đổi mới giáo dục đào tạo.
Trong phần 2 bài viết nêu các nhược điểm của từng loại mô hình khi phát triển ở
nước ta, và đề xuất các phương án chỉnh sửa từng loại mô hình đó, với mong muốn
xây dựng cho nước ta một “mạng lưới cơ sở giáo dục - đào tạo đẳng cấp thế giới”.
Khi nói về mạng lưới giáo dục – đào
tạo, có một câu hỏi nảy sinh: trong mạng lưới đó các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH),
giáo dục nghề nghiệp (GDNN) được xây dựng theo mô hình nào? Bài viết này sẽ
trình bày một số mô hình cơ sở GDĐH, GDNN quan trọng cần được lưu ý xây dựng và
củng cố trong mạng lưới giáo dục – đào tạo nước ta.
1. MỘT
SỐ MÔ HÌNH CƠ SỞ GDĐH VÀ GDNN QUAN TRỌNG
Trước thời kỳ đổi mới, GDĐH nước ta được xây dựng
dựa vào mô hình của Liên Xô cũ, theo đó phần lớn các trường đại học là các trường
đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực, quy trình đào tạo đại học thường thiết kế liền một
mạch, 4 đến 6 năm, theo hướng chuyên ngành rất hẹp. Từ thập niên đổi mới đầu
tiên, một số mô hình cơ sở GDĐH kiểu khác được xây dựng [Hiệp hội..,2017], tuy
nhiên việc triển khai các mô hình đó đã nảy sinh nhiều vấn đề. Trong phần này chỉ
trình bày các mô hình cơ sở GDĐH, GDNN quan trọng nhất mà xung quanh chúng còn
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau.
1.1.
Đại học đa lĩnh vực, mô hình phổ biến chủ đạo của GDĐH thế giới
·
Xu hướng thế giới:
Ở Hoa Kỳ có khoảng 4500 trường đại
học và cao đẳng, chia làm 2 nhóm lớn, khoảng
2800 trường đại học bốn năm (four-year colleges) và khoảng 1700 trường đại
học hai năm (two-year colleges). ”Đại học
4 năm” là thuật ngữ để gọi chung các trường có đào tạo bằng cử nhân (bachelor)
trở lên. ”Đại học 2 năm” là thuật ngữ để gọi chung các trường cao đẳng (junior
college) hoặc cao đẳng cộng đồng (community college), đó là các trường cung cấp
các chương trình học nghề sau trung học hoặc các chương trình chuyển tiếp (transfer)
cấp các loại “associate degree” để có thể
tiếp tục học ở các trường đại học bốn năm [Lâm Quang Thiệp, Bruce Johnstone, Philip
Altbach, 2007].
Mục này giới thiệu trước về đại học
4 năm, mục sau sẽ nói về đại học 2 năm. Phần lớn đại học 4 năm ở Hoa Kỳ được tổ
chức theo mô hình university, tức là
trường đại học đa lĩnh vực, một mô hình trường đại học có hiệu quả cao nhất. Sở
dĩ mô hình đại học đa lĩnh vực có hiệu quả cao nhất vì các lý do sau đây. Một
là, các đại học đa lĩnh vực sẽ đảm bảo đào tạo tốt các chương trình “giáo dục
khai phóng” [Lâm Quang Thiệp, 2018], xu hướng GDĐH chủ đạo ở Hoa Kỳ, vì chỉ
trong các university mới có đủ đội ngũ giáo sư, giảng viên có trình độ cao để
giảng dạy tốt các chương trình giáo dục này. Hai là, các đại học đa lĩnh vực có
ưu thế về nghiên cứu và phục vụ xã hội, vì ngày nay các đề tài nghiên cứu lớn đều
là các đề tài có tính liên ngành, các hoạt động phục vụ xã hội cũng vậy. Ba là,
đại học đa lĩnh vực bao gồm nhiều ngành đào tạo khác nhau dễ đối phó với sự biến
động về nhu cầu của từng nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chính vì ưu thế của mô hình đại học
đa lĩnh vực nên khi chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế
thị trường, nhiều nước đã chuyển từ trường đại học đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực
sang đại học đa lĩnh vực. Ở Liên bang Nga, phần lớn các đại học đơn ngành đơn
lĩnh vực thời Liên Xô cũ với tên gọi “inxtitut” chuyển sang mô hình đa lĩnh vực
và đặt lại tên là “universitet” hoặc “academia”. Ở Trung Quốc Đại học Bắc Kinh
vốn bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội kiểu
“universitet” của Liên Xô cũ, cũng như Đại học Thanh Hoa vốn là một đại học
bách khoa với lĩnh vực kỹ thuật công nghiệp, đều đã mở bổ sung thêm nhiều lĩnh
vực khác để trở thành các “university” đa lĩnh vực theo kiểu phương Tây [Lâm
Quang Thiệp, 2018].
·
Áp dụng ở Việt Nam:
Vào
đầu thập niên 1990, khi Chính phủ chủ trương xây dựng một số trường đại học mạnh
cho nước ta, Thủ tướng Võ Văn Kiệt yêu cầu Bộ GD&ĐT thiết kế các đại học
này. Theo yêu cầu đó Bộ đã đề nghị xây dựng hai đại học quốc gia Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh, ba đại học vùng Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng theo mô hình đại
học đa lĩnh vực [Hiệp hội.., 2017]. Tuy nhiên việc thực hiện đã diễn ra không
đúng như thiết kế, lý do chủ yếu là các trường thành viên phản đối việc sáp nhập, vì
mất nhiều “ghế” quản lý. Các nhà tổ chức phải thỏa hiệp bằng cách hứa hẹn giữ
nguyên vị trí các trường thành viên, không thay đổi các chức vụ quản lý trước
đây, do đó các quy chế tổ chức được xây dựng theo mô hình đại học hai cấp. Theo
mô hình này, hoạt động trong các trường thành viên hầu như vẫn giữ như cũ, sự kết
nối giữa các trường thành viên với nhau rất lỏng lẻo, và cấp quản lý trên cùng
của “đại học” thực hiện một cơ chế quản lý trung gian gián tiếp, giống như các
“bộ Đại học” nhỏ. Mô hình thực tế của các đại học quốc gia và đại học vùng đã
vô hiệu hóa hoàn toàn các ưu thế của mô hình đại học đa lĩnh vực như đã nói ở mục
1.1 trên đây. Thế nhưng cơ chế “hai cấp” của các đại học đa lĩnh vực thậm chí
đã được khẳng định và gắn với khái niệm “đại học” ở Luật GDĐH năm 2012, chỉ được
xóa bỏ trong Luật GDĐH năm 2018. Chính vì sự kém hiệu quả của các mô hình đại học
quốc gia và đại học vùng nên Ngân hàng Thế giới (WB) đã có một văn bản
góp ý chính thức khi xây dựng Luật GDĐH 2018 đề nghị điều chỉnh các mô hình đó
[The World Bank team…, 2018]. Tuy nhiên,
cho đến nay vẫn chưa có một phương án nào có hiệu quả để điều chỉnh.
Liên quan với mô hình đại học đa lĩnh vực cũng cần nhắc
đến mô hình của các cơ sở đào tạo giáo viên. Từ đầu thời kỳ đổi mới cho đến tận
ngày nay, vẫn có hai quan điểm khác nhau về cách đào tạo giáo viên phổ thông
trung học. Một là đào tạo trong đại học sư phạm khép kín theo kiểu Liên Xô cũ trước đây,
sinh viên được học sư phạm ngay từ đầu. Hai là đào tạo tạo trong các đại học đa lĩnh
vực. Theo quan điểm sau, hai năm đầu sinh viên sư phạm được học chương trình
khoa học cơ bản chuyên sâu chung với sinh viên khoa học, hai năm sau mới được
đào tạo về sư phạm. Giáo viên đào tạo theo mô hình này sẽ vững về chuyên môn
hơn nên sẽ phát triển tốt hơn trong quá trình giảng dạy về sau. Mô hình này
cũng giúp nhà trường dễ thích nghi hơn với thị trường khi nhu cầu về giáo viên
thay đổi. Tuy nhiên ý tưởng về đào tạo giáo viên trong các đại học đa lĩnh vực
bị phản đối rất nhiều bởi những người đã quen với mô hình Liên Xô cũ. Vào những
năm sau đó chỉ một số trường đại học sư phạm được chuyển thành đại học đa lĩnh
vực (Đại học Vinh, Đại học Quy nhơn, Đại học Hải phòng), còn các trường sư phạm
lớn khác vẫn giữ mô hình đại học sư phạm đơn lĩnh vực khép kín. Việc không tuyển
sinh được vào hệ thống các trường sư phạm từ kỳ tuyển sinh năm 2017 do nguồn
cung giáo viên vượt quá nhu cầu đã làm bộc lộ rõ nhược điểm của mô hình đại học
sư phạm đơn lĩnh vực khép kín.
1.2.
Cao đẳng/đại học cộng đồng, mô hình có hiệu quả cao ở Mỹ và trên thế giới
·
Xu hướng thế giới:
Trên cơ sở các ý tưởng đem GDĐH gắn với cộng đồng
và địa phương, vào năm 1901 Joilet Junior College, trường cao đẳng cộng đồng đầu
tiên ở Hoa Kỳ đã ra đời. Cho đến nay, sau hơn 100 năm phát triển, trong hệ
thống GDĐH Hoa Kỳ có khoảng 1700 trường loại này, tuy rằng có thể với tên gọi
khác nhau, sở hữu khác nhau (công và tư) nhưng có đặc điểm chung là gắn với các
cộng đồng dân cư địa phương, đào tạo các nghề nghiệp thiết thực phục vụ phát
triển kinh tế xã hội địa phương, đồng thời tạo cho đông đảo cư dân ở các cộng
đồng cơ hội học đại học. Hệ thống đại học/cao đẳng cộng đồng của Hoa Kỳ chính
là công cụ quan trọng nhất làm cho Hoa Kỳ trở thành một quốc gia thực hiện được
đại chúng hóa GDĐH (trước đây) và phổ cập hóa GDĐH (ngày nay) trước các quốc
gia tiên tiến khác của châu Âu nhiều thập niên. Nhiều học giả Mỹ nhận
định rằng sự hình thành hệ thống cao đẳng/đại học cộng đồng
(CĐ/ĐHCĐ) là thành tựu và niềm tự
hào to lớn nhất của nền GDĐH Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.
Ý tưởng về loại hình trường đại học nêu trên đã
được nhiều quốc gia hưởng ứng. Ở Nhật Bản, sau Thế chiến thứ 2, Chính phủ Nhật
đã tổ chức lại gần 600 trường đại học chuyên nghiệp 3 năm thành 181 trường đại
học/cao đẳng cộng đồng (đại học đoản kỳ).
Đây là hệ thống đại học rất quan trọng chuẩn bị nhân lực để đưa nền kinh
tế Nhật Bản từ tình trạng suy sụp khi thua trận và đầu hàng đồng minh cuối thế chiến thứ 2 nhanh
chóng phục hồi và phát triển thần kỳ chỉ sau đó 15 năm. Cũng có thể nêu
tên rất nhiều nước có sự tiến bộ kinh tế nổi bật, trong đó có Hàn Quốc và Đài
Loan, và hàng chục quốc gia khác mà hệ thống CĐ/ĐNCĐ đã đóng góp rất quyết
định trong việc đảm bảo nhân lực để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội [Nguyễn Văn
Thùy, Trần Ngọc Lợi, 1996].
Loại hình CĐ/ĐHCĐ rất đa dạng, nhưng chúng có
nhiều đặc trưng chung, có thể nêu sau đây:
- Có chức năng quan trọng hàng đầu là đào
tạo và cập nhật nghề nghiệp theo các nhu cầu chung và đặc thù của địa
phương, gắn chặt với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, có hệ
thống chương trình đào tạo linh hoạt và đa dạng;
- Có
các chương trình bồi dưỡng tạo cơ hội cho nhiều tầng lớp cư dân địa phương
ở mọi độ tuổi tiếp cận GDĐH. Một chương trình đào tạo đặc biệt quan
trọng là chương trình 2 năm đầu của bậc đại học, kết hợp liên kết với
các đại học lớn và đại học chuyên ngành khác, để giúp sinh viên chuyển
tiếp đến học giai đoạn sau của chương trình cử nhân;
- Là trung tâm văn hóa xã hội của địa
phương;
- Được địa phương cấp ngân sách, hỗ trợ đất
đai và nhiều hỗ trợ khác;
- Chịu sự chỉ đạo của địa phương trong định hướng
phát triển nhằm phục vụ cho cộng đồng và địa phương;
- Sinh viên người địa phương được những ưu
tiên nhất định về học phí và các điều kiện học tập khác.
·
Áp dụng ở Việt Nam:
Cho đến nay các trường CĐ/ĐHCĐ ở Việt Nam đã trải
qua một chặng đường phát triển không phải là ngắn. Nếu tính từ các trường đại học
cộng đồng đầu tiên được thành lập ở Miền Nam Việt Nam năm 1971 thì gần 50 năm
đã trôi qua. Có thể nêu một số dấu mốc trên con đường phát triển của loại hình
trường CĐ/ĐHCĐ ở nước ta:
- 1971 – 1974 (trước khi thống nhất đất nước):
2 trường đại học cộng đồng đầu tiên được thành lập ở Nha Trang và Mỹ Tho năm
1971, sau đó là Đại học cộng đồng tại Đà Nẵng năm 1974. Sau ngày thống nhất đất
nước các trường đại học cộng đồng nói trên không còn được duy trì.
- Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 2 khóa
VIII tháng 12 năm 1996 đã xác định cao đẳng cộng đồng là một loại hình trường
của hệ thống GDĐH Việt Nam. Ý tưởng xây dựng một hệ thống nhà trường để người
dân có thể “ăn cơm nhà đi học đại học” đã được phổ biến rộng rải lúc bấy
giờ.
- Với sự khẳng định về mô hình cao đẳng cộng đồng
trong hệ thống GDĐH nước ta, nhiều hoạt động nhằm xây dựng loại hình trường này
đã diễn ra với sự trợ giúp của nhiều nước. Đặc biệt một Dự án với tài trợ của
Hà Lan từ năm 1995 đến 2002 đã giúp ta
xây dựng 6 trường cao đẳng cộng đồng. Sau đó có các dự án với tài trợ
của Canada và các quan hệ liên kết quốc tế khác.
- Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi
mới GDĐH cho đến năm 2020 khẳng định “.. hoàn thiện mô hình trường cao đẳng cộng
đồng và xây dựng quy chế chuyển tiếp đào tạo với các trường đại học” [Nghị quyết số 14/NQ-CP, 2005].
Ngày nay ở nước ta Hiệp hội các trường Cao đẳng
cộng đồng Việt Nam đã được thành lập với khoảng 60 thành viên. Trong hai thập
niên qua ở nhiều tỉnh cũng hình thành các trường đại học địa phương. Có ý kiến
đề xuất nên gắn kết các trường cao đẳng cộng đồng và các trường đại học địa
phương thành một hệ thống với một mục tiêu chung là phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, cho đến
nay hệ thống đó chưa thật sự được hình thành. Hệ thống chuyển tiếp đào tạo giữa
các trường CĐ/ĐHCĐ và các trường đại học chuyên nghiệp cũng chưa được chính thức
xây dựng ở nước ta.
Có thể xem CĐ/ĐHCĐ là mô hình kết hợp của cả cơ
sở GDĐH và GDNN. Do đó, việc tách rời hệ thống GDĐH với các trường cao đẳng nghề
nghiệp như thể chế hiện nay là một trở ngại trong việc quản lý hệ thống này.
1.3.
Đại học mở
·
Xu hướng thế giới:
Vào nửa
cuối thế kỷ 20 nhiều nhà giáo dục cảm thấy sự chật chội của các mô hình giáo dục
truyền thống, muốn thoát khỏi nó để làm cho giáo dục dễ tiếp cận hơn đối với
nhiều người. Trường Đại học mở (ĐHM) đầu tiên trên thế giới ở Vương quốc Anh
(UK OU) theo xu hướng này, đã ra đời vào năm 1969. Từ “mở” được sử dụng ở đây để
nói lên ý tưởng gạt bỏ bớt các rào cản hạn chế cơ hội tham dự của người học vào
các trường đại học thông thường. Vì “dễ dãi” về điều kiện tiếp nhận người học nên UK OU đã thu hút
một số lớn sinh viên, đặc biệt là những người nhiều tuổi vừa học vừa làm. Hiện nay UK OU là trường đại học đông sinh
viên nhất Vương quốc Anh (250 nghìn sinh viên, bao gồm 50 nghìn sinh viên quốc
tế, trong tổng số chỉ có 32 nghìn sinh viên dưới tuổi 25). Tuy “dễ dãi” về điều
kiện đầu vào, nhưng việc đánh giá đầu ra được thực hiện rất nghiêm khắc nên chất
lượng đào tạo vẫn bảo đảm, vì vậy UK OU được tổ chức “Academic Ranking of World
Universities” xếp hạng trong số 40 trường hàng đầu của UK và
trong số 500 trường hàng đầu của thế giới [Open University, 2019].
Hưởng
ứng ý tưởng của UK OU, hàng loạt trường ĐHM ra đời trên khắp thế giới. Hiện nay
trên thế giới có hơn 50 trường đại học lớn nhất, có từ hàng trăm nghìn đến hàng
triệu sinh viên, đặc biệt ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Trong số các siêu đại học (mega-university) nói trên
có thể kể ĐHM Trung Quốc thành lập năm 1979 và ĐHM Indira Gandhi (Ấn Độ) thành
lập năm 1985, mỗi trường có khoảng 3,5 triệu sinh viên.
Nói đến giáo dục mở (GDM) không thể không nhắc đến sự
kết nối giữa tư tưởng của GDM và phương pháp luận của học tập từ xa (Distance
Learning) thành một hệ thống giáo dục rất mềm dẻo và có hiệu quả cao: Giáo dục
mở và Từ xa (Open and Distance Learning – ODL- GDM&TX). Ngày nay gần như
khó hình dung việc hai khái niệm nói trên có thể tách rời.
Sự phát triển của giáo dục từ xa (GDTX) được chi phối
bởi triết lý về một phương pháp giáo dục sử dụng các học liệu tiêu chuẩn hóa
được chuẩn bị trước để đạt hiệu quả kinh tế nhờ
tăng quy mô. Triết lý đó vừa tạo cơ hội tăng khả năng tiếp cận giáo dục,
vừa thỏa mãn nhu cầu độc lập của người học [Tian Belewati, 2010].
Khi bước vào thế kỷ 21, ý tưởng GDM đã phát triển với
một nhịp điệu nhanh chóng phi thường, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ
thông tin và truyền thông (ICT), đặc biệt là Internet. Cố gắng lớn đầu tiên
theo phương hướng cung cấp học liệu trực tuyến là nguồn học liệu mở (OpenCourseWare
–OCW) của Đại học MIT (Massasuset Institute of Technology) đưa lên mạng vào
tháng 10/2002 với mong muốn “ thúc đẩy việc học của nhân loại trên toàn thế
giới bằng cách tạo sẵn một trang web tri thức”…. Một thập niên sau, vào năm
2012, các Đại học MIT và Havard công bố việc hình thành edX, công cụ mạng làm
nền cho các “khóa học mở trực tuyến quy mô lớn”
(massive open online course - MOOC) để cung cấp các khóa học bậc
đại học với một dải rộng ngành học miễn
phí cho người học trên toàn thế giới. Thuật
ngữ MOOC được đưa ra vào năm 2008, và sau một số khóa đào tạo trực tuyến miễn
phí thử nghiệm thuật ngữ đó được chấp nhận rộng rãi.
Việc tạo ra và duy trì các OCW tổng hợp đòi hỏi rất nhiều tài
lực và nhân lực, và việc chuyển chúng sang các ngôn ngữ khác cũng rất tốn kém.
Cho nên hiện nay MOOC chủ yếu vẫn thực hiện bằng tiếng Anh. Tuy nhiên một số quốc
gia đã tích cực hưởng ứng OCW của MIT và chuyển đổi sang ngôn ngữ quốc gia. Chẳng
hạn, ngay từ 9/2003 Trung Quốc đã tổ chức liên kết các trường đại học lớn,
trong đó có Đại học mở Trung quốc, triển khai sử dụng OCW ở Trung Quốc. Ở Ấn Độ
và Nhật Bản cũng có các hoạt động mạnh theo hướng triển khai sử dụng OCW ở nước
mình. Có nhiều ý kiến khác nhau về lợi ích và nhược điểm của
MOOC, nhưng dù sao nhiều người công nhận rằng sự “thành công của MOOC có thể sẽ
làm thay đổi cấu trúc của nền công nghiệp GDĐH” [Wikipedia.org/wiki/MOOC, 2019].
·
Áp dụng ở Việt Nam:
Ở nước ta Viện ĐHM Hà Nội và trường ĐHM thành phố Hố Chí Minh
đã được thành lập từ năm 1993, với sứ mạng phát triển GDM&TX. Thời điểm
thành lập cách đây hơn một phần tư thế kỷ không phải là quá muộn so với nhiều
quốc gia trong khu vực. Tiếc rằng, sự hạn hẹp về tầm nhìn của những người quản
lý hệ thống và sự yếu kém về chính sách giáo dục đã làm cho sự phát triển của
hai ĐHM không tương ứng với sứ mạng được đề ra cho chúng, khá chậm so với nhiều
ĐHM trong khu vực. Chẳng hạn, Bộ GD&ĐT
đã dùng cách cấp chỉ tiêu tuyển sinh chính quy cho 2 đại học này giống như cho
các đại học thông thường khác, và căn cứ vào đó để cấp ngân sách theo đầu sinh
viên chính quy, mà không quan tâm đến loại hình sinh viên đào tạo theo
GDM&TX. Hai ĐHM còn bị “bỏ quên” trong các Dự án GDĐH với vốn vay của Ngân
hàng Thế giới. Trong nhiều năm hai ĐHM được quy định là các đơn vị “tự chủ về
tài chính”, tức là không được nhận đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Một điều đáng
buồn là Dự án “Phát triển Giáo dục từ xa giai đoạn 2005-2010” đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt chính thức mà hoàn toàn không được triển khai. Vì không
được sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước nên cho đến nay, tuy bản thân
đã tự cố gắng nhiều nhưng 2 ĐHM không hoạt động đúng tầm sứ mạng của mình. Theo
chúng tôi, đây là một khiếm khuyết lớn về chiến lược chung phát triển GDĐH ở nước
ta.
Trong mạng lưới cơ sở giáo dục đào tạo hiển
nhiên còn nhiều loại mô hình khác, tuy nhiên bài viết này chỉ tập trung phân tích
3 loại mô hình đã nêu.
2.
VIỆC ĐIỀU CHỈNH VÀ
CỦNG CỐ CÁC CƠ SỞ GDĐH, GDNN
TRONG MẠNG LƯỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRONG MẠNG LƯỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
Như đã nói trong phần 1.3., các loại
cơ sở GDĐH, GDNN đã nêu khi triển khai xây dựng ở nước ta đều gặp các vấn đề
khác nhau và không phát huy được hiệu quả như mong muốn. Cần xử lý như thế nào
để khắc phục tình trạng đó? Phần này sẽ bàn đến việc việc điều chỉnh và củng cố
cho từng loại mô hình.
2.1.
Đối với các đại học đa lĩnh vực
·
Nhược điểm của “đại
học hai cấp”
Như đã nói, các đại học hai cấp ở
nước ta không phát huy được các thế mạnh của mô hình “university” như đã nêu ở
phần 1. Trước hết, các trường thành viên đều là các trường đơn ngành, đơn lĩnh
vực, lại liên kết với nhau rất lỏng lẻo, hầu như hoàn toàn độc lập về đào tạo,
nên ưu thế về việc nâng cao chất lượng đào tạo theo chương trình giáo dục khai
phóng không thể hiện được. Cũng vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu,
phục vụ xã hội và đáp ứng thị trường lao động, quan hệ lỏng lẻo giữa các trường
thành viên rất khó tạo nên sự phối hợp để tăng hiệu quả.
Như đã nêu ở 1.1., văn bản của WB nhận xét về
dự thảo Luật GDĐH nước ta đặc biệt lưu ý đến mô hình các đại học quốc gia. Trước
hết họ nói đó là mô hình duy nhất độc đáo tại Việt Nam (“is unique to Vietnam”)
và không thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới (“We have not come across this
set up in any country in the world”). Nói theo ngôn ngữ thông thường, đó là một
mô hình “không giống ai” trên thế giới. Họ có nêu 3 mô hình gần tương tự tại Cộng
hòa Nam Tư cũ, tại Côte d'Ivoire và tại Pháp, nhưng đều nhận xét là tất cả
3 trường hợp ấy đều thua kém các cơ sở
khác trong hoạt động lâu dài. Theo họ,
các nhược điểm đó là: “không tận dụng được hết ưu thế về tài năng, kiến thức, và
tiềm lực hiện có bị phân tán trong một số lớn các cơ sở tách biệt. Kinh nghiệm
quốc tế cho thấy rằng các cơ sở đại học phi tập trung hoạt động kiểu như các
trường thành viên độc lập gắn kết yếu gặp thách thức lớn nhằm chuyển đổi và
tăng cường hoạt động bởi vì mỗi trường thành viên đều có kế hoạch và ưu tiên của
riêng mình, không nhất thiết gắn chặt với mục tiêu chung của đại học lớn. Sự
thiếu tích hợp làm cho chúng không thể tạo nên một sự đồng nhất cốt lõi và một
tình cảm chung về mục đích. Khi không có
một tầm nhìn chung, nhiệm vụ thiết kế và thực hiện một dự án phát triển đổi mới
cho toàn bộ trường đại học trở thành bất lực. Các cơ sở đại học phi tập trung
có xu hướng trở thành không hiệu quả vì sự trùng lặp của việc cung cấp các khóa
học và các cấu trúc hành chính. Các hoạt động trong giảng dạy và nghiên cứu vẫn
được giữ trong nội bộ các trường và khoa riêng biệt. Những nỗ lực đa ngành bị cản
trở. Các nguồn lực tài chính và khoa học
không được chia sẻ rộng rải.” Có lẽ các
nhận xét đó thể hiện khá đầy đủ nhược điểm của mô hình đại học hai cấp mà chúng
tôi đã nhiều lần phát biểu [Lâm Quang Thiệp, 2017, 2018].
Đối với hai đại học quốc gia thì như vậy,
nhưng các đại học này được “nâng cấp“ về quyền tự chủ, không còn “trực thuộc” Bộ
GD&ĐT. Ở các đại học vùng tình trạng trầm trọng hơn vì mức độ tự chủ của
chúng thấp hơn, cho nên cho đến tận bây giờ nhiều trường thành viên vẫn bày tỏ
mong muốn thoát khỏi mô hình này.
Riêng đối với một số trường đại học sư phạm
quan trọng, việc tuyển sinh năm 2017 đã làm bộc lộ bộc lộ nhược điểm của mô
hình đại học sư phạm đơn lĩnh vực: trường không thể tuyển đủ số sinh viên để
đào tạo vì sinh viên chọn hướng sư phạm rất ít, do ra trường khó tìm việc làm. Nhược
điểm đó cũng làm sống lại các quan điểm về đào tạo giáo viên trung học phổ
thông trong một university như đã nói ở mục 1.1.
·
Phương hướng điều
chỉnh mô hình
Nhược
điểm của mô hình đại học hai cấp chẳng những được cảm nhận bởi các chuyên gia
và các nhà quản lý GDĐH trong nước, mà còn được vạch rõ bởi các chuyên gia GDĐH
quốc tế. Do đó nên có kế hoạch điều chỉnh mô hình này. Dưới đây là một số đề xuất
của
chúng tôi, những người trong cuộc có theo dõi diễn biến của việc xây dựng các đại
học quốc gia và đại học vùng trong quá trình đổi mới GDĐH, và của các chuyên gia GDĐH của WB, để những người
có trách nhiệm của Nhà nước lựa chọn
Theo
chúng tôi, tốt hơn hết các cơ sở quan trọng đó của hệ thống GDĐH nước ta nên
xây dựng theo mô hình university thực
sự, chứ không nên sử dụng mô hình đại học hai cấp [Lâm Quang Thiệp, 2018]. Muốn
vậy, tùy theo điều kiện cụ thể nên xử lý một đại học hai cấp nào đó theo một
trong hai giải pháp: 1) Cho phép các trường thành viên đơn ngành đơn lĩnh vực
phát triển thành các university, và đại học hai cấp biến thành một tập đoàn các
university với sự liên kết rất lỏng lẻo
theo kiểu University of California hoặc California State University của bang
California, Hoa Kỳ; 2) Đại học hai cấp chuyển thành một university đơn nhất thực
sự, thay đổi bộ phận điều phối trung gian thành cấp điều hành trực tiếp, toàn bộ
university có một chương trình đào tạo chung, như kiểu Trường Đại học Cần Thơ và
một số đại học đa lĩnh vực khác ở nước ta.
Trong văn bản góp ý của WB đã nêu trên đây, các chuyên gia GDĐH của WB cũng
đề xuất các giải pháp thay đổi mô hình của các đại học quốc gia và đại học vùng
như sau. Như một giải pháp ưu tiên, họ cho rằng: “trong “university” nên có các
trường (schools, institutes, faculties) chứ không phải các “university”. Luật
GDĐH sửa đổi nên tạo một điểm gặp để tích hợp các đại học thành viên vào một
“university” mạnh mẽ và thống nhất nhằm dẫn đến sự xuất sắc về học thuật và công
nhận quốc tế. Việc tái cấu trúc dần dần
sẽ làm hài hòa các thiết chế quản trị, và nếu quản lý tốt, nó có thể mang lại
các lợi ích quan trọng, như các phương tiện và nguồn lực được chia sẻ chung, và
các nỗ lực được hợp tác cho phép university thống nhất phát huy ưu thế so sánh
của nó và tạo nên nền học vấn theo các cách chưa từng có”. Họ còn nêu một cách tiếp cận khác, ưu tiên thấp
hơn, nhưng vẫn tốt hơn hiện trạng, là: “ cho phép giám đốc đại học lớn được lựa
chọn và bổ nhiệm hiệu trưởng các trường thành viên và có toàn quyền phân phối
ngân sách cho các trường thành viên, cũng như có quyền lực trong việc bổ nhiệm
các chức vụ học thuật và quản lý cao cấp trong các trường thành viên”. Mặc dù
diễn đạt theo cách khác so với ý kiến của chúng tôi trên đây, nhưng đề xuất của
các chuyên gia GDĐH của WB vẫn thể hiện mong muốn các đại học quốc gia của
chúng ta được thay đổi theo mô hình các
university thống nhất, gắn kết chặt chẽ để có cơ hội phát triển mạnh mẽ.
Về các đại học sư phạm đơn lĩnh vực, việc chuyển
thành đại học đa lĩnh vực, trong đó có ngành sư phạm phát triển ưu tiên, để đào
tạo giáo viên phổ thông trung học, như đã nói ở phần 1.1., cũng là một hướng rất
đáng lưu ý.
2.2.
Đối với các trường cao đẳng cộng đồng, đại học địa phương và các loại trường
cao đẳng khác
·
Nhược điểm của hệ
thống các trường cao đẳng và cao đẳng cộng đồng nước ta
Hiện nay ở nước ta việc quản lý hệ
thống các trường đại học, cao đẳng bị phân cắt, vì việc phân công quản lý giữa
các bộ với nhau được thiết kế theo kiểu “cát cứ”. Chẳng hạn, hầu hết trường cao đẳng do Bộ Lao động
Thương binh Xã hội quản lý, chỉ các cao đẳng sư phạm thuộc Bộ GD&ĐT. Theo
thông lệ quốc tế, GDĐH thường được hiểu là giáo dục sau trung học
(postsecondary), các trường đại học và cao đẳng phải cấu thành một hệ thống thống
nhất, tương tác hỗ trợ nhau. Còn ở nước ta Luật GDĐH lại chỉ liên quan đến các
trường đào tạo bậc đại học trở lên, tức là “university education”, không phải
“higher education”.
Trong thời gian qua nhiều trường đại
học, cao đẳng được thành lập ở nước ta nhưng rất ít trường lấy tên gắn với thuật
ngữ “cộng đồng”. Hơn nữa các trường cao đẳng cộng đồng địa phương khi
được nâng lên đại học thì xóa luôn danh tính “cộng đồng” (Trà Vinh,
Tiền Giang, Quảng Ngãi…). Phải chăng hiện tượng đó thể hiện sự không
mặn mà lắm với danh tính “cộng đồng”, hoặc vì quan niệm danh tính
“cộng đồng” chỉ gắn với cấp cao đẳng chứ không gắn với cấp đại
học?
Hơn nữa, cho đến nay hệ thống
cao đẳng cộng đồng nước ta được tái thành lập và phát triển đã vài
thập niên nhưng nhưng chương trình đào
tạo chuyển tiếp chưa được nơi nào thiết kế nghiêm chỉnh, cả về
phía Bộ GD&ĐT cũng như từ phía các trường cao đẳng cộng đồng và
các trường đại học chuyên ngành liên quan, mặc dầu điều này đã được NQ14/NQ-CP nhắc đến.
·
Phương
hướng phát triển mô hình
Trước hết, nên quan niệm danh
tính cộng đồng nhằm nhấn mạnh đặc trưng gắn với địa phương, với
cộng đồng, dù là đào tạo ở cấp cao đẳng hay đại học. Ở nước ngoài
trong quá trình phát triển hệ thống tương tự cũng đã xuất hiện
thuật ngữ “community university-college” để chỉ các trường cộng đồng
có đào tạo một số chương trình đại học 4 năm. Danh tính “cộng đồng”
còn có ý nghĩa quốc tế vì phần lớn các trường loại này ở Hoa Kỳ
và Canada lấy tên là “community college”, và một hiệp hội quốc tế lớn
cũng mang tên này (Community Colleges for International Development – CCID).
Nói chung, các trường cao đẳng cộng đồng ở nước ta trước hết nên
phát triển vững chắc các chương trình đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp
và chương trình chuyển tiếp đại học hai năm, không nên quá vội vàng
nâng lên thành một trường đại học non. Tuy nhiên, khi một trường cộng
đồng đã xây dựng được vài ba ngành nghề đào tạo chuyên nghiệp ở giai
đoạn sau của bậc cử nhân thì Nhà nước có thể cho phép họ nâng lên
thành đại học, với điều kiện vẫn giữ là “đại học cộng đồng”. Với
ý tưởng này, Hiệp hội Cao đẳng cộng đồng Việt Nam cũng nên đổi tên
thành Hiệp hội Cao đẳng/Đại học cộng đồng và mở rộng kết nạp tất
cả các trường đại học có mục tiêu gắn với địa phương (dù có hay
không mang danh tính “cộng đồng”). Với một Hiệp hội Cao đẳng/Đại học
cộng đồng mạnh, Hiệp hội có thể tổ chức được nhiều hoạt động hữu
ích, trong đó có hoạt động đặc biệt quan trọng là liên kết đào tạo
chuyển tiếp trong bản thân Hiệp hội cũng như với các trường đại học
chuyên ngành khác.
Các
Bộ Ngành và các cơ quan lãnh đạo địa phương, các trường đại học lớn
và đại học chuyên ngành nên hỗ trợ các trường đại học/cao đẳng cộng
đồng xây dựng các mối liên kết để thực hiện các chương trình chuyển tiếp đại học.
Để tạo công cụ cho các chương trình chuyển tiếp đại học đó, nên đưa
thêm vào hệ thống văn bằng ở bậc đại học nước ta một “bằng Đại học
đại cương” 2 năm để các trường CĐ/ĐHCĐ sử dụng cấp cho sinh viên hoàn
thành các chương trình đại học chuyển tiếp. Việc áp dụng học chế
tín chỉ trong toàn hệ thống GDĐH là một cơ hội để triển khai xây
dựng các mối liên kết này.
Nếu các đại học sư phạm đơn lĩnh vực
gặp khó khăn trong tuyến sinh để đào tạo giáo viên trung học phổ thông, thì các
trường cao đẳng sư phạm cũng có thể sẽ có lúc gặp khó khăn trong tuyến sinh để
đào tạo giáo viên trung học cơ sở. Chuyển các trường Cao đẳng sư phạm thành Cao
đẳng cộng đồng, trong đó ưu tiên hướng đào tạo giáo viên, là phương hướng đáng
lưu ý. Hệ thống các trường cao đẳng sư phạm cũng như cao đẳng cộng đồng không
nên quy định trực thuộc bộ nào, mà chỉ nên chịu sự quản lý nhà nước về ngành
nghề của các bộ tương ứng, và chịu sự quản lý hành chính của địa phương.
2.2.
Đối với các đại học mở
·
Nhược điểm của hệ
thống các đại học mở ở nước ta
Hai ĐHM ở nước ta có sứ mệnh được
quy định từ khi thành lập là phát triển GDM&TX, nhưng sứ mệnh đó không được
coi trọng, Nhà nước không đầu tư thích đáng để chúng có thể đóng vai trò nòng cốt
cho loại hình giáo dục này trong cả nước. Đào tạo không chính quy ở bậc đại học
chính là loại hình đào tạo theo phương thức rất gần với GDM&TX. Tuy nhiên, trong
nhiều năm loại hình này đã phát triển mạnh ở mọi trường đại học, kể cả các đại
học trọng điểm, mà không được ưu tiên
phát triển ở 2 ĐHM. Do vậy, đã có nhận xét là các ĐHM đã được biến thành các đại học khép, và nhiều đại
học trọng điềm lài được biến thành các ĐHM
[Lâm Quang Thiệp, 2010].
Muốn
đảm bảo chất lượng của hệ thống đào tạo không chính qui, là hệ thống áp dụng chủ
yếu phương thức GDM&TX, phải có biện pháp đặc biệt, đó là có hệ
thống học liệu, công cụ đánh giá kết quả học tập phù hợp và có cơ sở hạ tầng
đầy đủ. Thực chất đó là công nghệ giảng dạy cho số đông. Các
trường đại học thông thường không thể có đủ kinh phí để xây dựng đầy đủ công
nghệ này, dó đó cần tập trung đầu tư cho các ĐHM để chúng có thể nòng cốt xây dựng,
và Nhà nước cần đưa ra thể chế để sử dụng chung cho toàn hệ thống. Hai ĐHM của
ta chưa được đầu tư để đảm nhận vai trò nêu trên.
·
Phương hướng phát
triển mô hình
Các ĐHM là công cụ quan trọng để đại chúng hóa GDĐH, cần
được củng cố để có thể đào tạo một số lượng lớn sinh viên không chính quy bằng
phương thức GDM&TX, đồng thời hỗ trợ các trường đại học khác nâng cao chất
lượng hệ đào tạo không chính quy.
Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho hai ĐHM để các trường
này phát triển được công nghệ giảng dạy cho số đông đã nêu trên đây. Ngoài ra,
Nhà nước cần quy định các trường đại học trọng điểm không được đào tạo không
chính quy, còn các trường đại học khác nếu muốn đào tạo không chính quy thì phải
sử dụng công nghệ của các ĐHM.
Muốn xây dựng được hệ thống học liệu và công cụ đánh giá
tốt cho các ngành học phổ biến, các ĐHM phải huy động được sự đóng góp của giảng
viên có trình độ cao từ các trường đại học lớn. Để việc huy động có hiệu quả, cần
phối hợp chặt chẽ với các trường đại học có đội ngũ giảng viên trình độ cao: ĐHM
phải đảm bảo lợi ích của cá nhân các giảng viên trực tiếp cộng tác, đồng thời một
phần lợi ích của các trường đại học có giảng viên tham gia. Muốn vậy, có thể tổ
chức lại 2 ĐHM, xem mỗi ĐHM là hạt nhân của một tập đoàn các trường đại học tham gia với ĐHM thực hiện GDM&TX. ĐHM Malaysia (Open
University Malaysia - OPM) có thể là một mô hình để tham khảo (OPM hoạt động
theo quy chế tư thục trên cơ sở liên kết với 11 trường đại học công lập lớn của
Malaysia) [wikipedia.org/wiki/Open_University_Malaysia, 2019].
Khi có các ĐHM mạnh, Nhà nước có thể giao cho các ĐHM nhiều
trách nhiệm lớn hơn, như Trung Quốc đã làm đối với Đại học Phát thanh
Truyền
hình Trung ương của họ. Trung Quốc đã
sử dụng hệ thống đánh giá kết quả học tập của đại học này để cấp bằng cho những người tự học và những người
học từ các trường đại học tư chưa có quyền cấp bằng.
Nếu các ĐHM nước ta được thực hiện nhiệm vụ này thì chúng
sẽ đóng một vai trò rất lớn trong việc xây dựng xã hội học tập trình độ đại học ở nước ta. Hệ thống đánh giá của
chúng cũng sẽ là dấu nối tạo mối liên thông giữa GDĐH không chính quy và chính quy, một hỗ trợ
quan trọng cho việc học suốt đời.
VÀI
DÒNG KẾT LUẬN
Trong khi nhiều quốc gia theo đuổi việc xây dựng các đại
học đẳng cấp thế giới, thì Hội nghị GDĐH
khu vực châu Á – Thái Bình Dương tại Ma Cao tháng 9 năm 2008 đưa
ra khuyến nghị đối với các quốc gia chưa thật giàu có là: “Tốt hơn hết, nhiều quốc gia có thể định vị trong một thị
trường cạnh tranh toàn cầu bằng cách tạo dựng cho mình một “hệ thống đẳng cấp
thế giới về GDĐH” hơn là tập trung phần lớn nguồn lực của mình để tạo nên một số
ít cái gọi là trường đại học đẳng cấp thế giới”. Hệ thống đẳng cấp thế giới về
GDĐH là “hệ thống nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và sự đa dạng
của nền học vấn - năng lực của sinh viên do kết quả của việc đại chúng hóa
(GDĐH). Các trường đại học cần có các sứ mạng khác nhau và cần phục vụ nhiều loại
nhóm người khác nhau có lợi ích liên quan với GDĐH. Hoạt động cơ bản của GDĐH vẫn
là giảng dạy và học vấn, và trong một môi trường toàn cầu ngày càng phức tạp và
biến động, sự phù hợp của các hoạt động của chúng đối với các cộng đồng địa
phương sẽ trở nên hết sức quan trọng” [Conference
Report, 2008]. Nói cách khác, đó là
hệ thống GDĐH mạnh, đa dạng, phân tầng, đáp ứng có hiệu
quả các yêu cầu khác nhau của sự phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu học tập của
nhân dân.
Tâm đắc với ý tưởng đó, tác giả của bài viết này từ năm
2010 đã đề xuất phương hướng xây dựng một “hệ thống đẳng cấp thế giới” cho GDĐH
nước ta [Lâm quang Thiệp, 2010]. Bài viết lần này lại nêu ý kiến về việc việc
điều chỉnh và củng cố một số có sở GDĐH trong mạng lưới giáo dục đào tạo cũng với
mong muốn nước ta sẽ có một mạng lưới giáo dục đào tạo tốt. Hy vọng các đề xuất
đã nêu sẽ được những người có trách nhiệm quan tâm thực hiện để nước ta có một “mạng lưới giáo dục đào tạo đẳng cấp thế giới”.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
1. Hiệp hội các trường đại
học, cao đẳng Việt Nam, 2017. Một số tư
liệu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 1987-1997. NXB Giáo dục.
2. Lâm Quang
Thiệp, D. Bruce
Johnstone, Philip G. Altbach, 2007. Giáo dục đại học
Hoa Kỳ, NXB Giáo dục.
3. Lâm Quang Thiệp,
2018. Sự trở lại của giáo dục khai phóng, Hội thảo "Đổi mới căn bản và toàn diện
hoạt động đào tạo trong các trường đại học và cao đẳng", Hiệp hội
các trường đại học và cao đẳng Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh, 2/11/2018.
4. Lâm Quang Thiệp,
2018. Mô hình đại học đa lĩnh vựcvà việc triển khai xây dựng ở nước ta,
Tạp chí Khoa học và Công nghệ - tháng 2/2018.
- The World Bank team, 2018. Comments on Vietnam
HE Law amendment draft, 29/4/2018.
6. Nguyễn Văn
Thùy, Trần Ngọc Lợi , 1996. Đại học Cộng đồng Hoa Kỳ. Lansing
Community College, 1996.
7. Nghị quyết số 14/NQ-CP, 2005, về
"Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020",
ngày 2/11/2005.
9.
Tian Belewati, 2010. Conceptual Origins. In “Policy and
Practice in Asian Distance Education”, SAGE, 2010.
- Lâm Quang Thiệp,
2017. Đại học đa lĩnh vực thành công
trên thế giới, nhưng sao gặp "sự cố" ở ta? Giaoduc.net, 15/09/17.
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Dai-hoc-da-linh-vuc-thanh-cong-tren-the-gioi-nhung-sao-gap-su-co-o-ta-post179666.gd - Lâm Quang Thiệp, 2018. Mô hình đại học đa lĩnh vực và việc triển
khai xây dựng ở nước ta. Tap chí Khoa học và Công nghệ - Tháng 2 năm 2018.
http://khoahocvacongnghevietnam.com.vn/epaper/view-pdf.php?year=2018&no=3
13.
Lâm Quang Thiệp, 2010. Xây dựng một hệ thống giáo dục mở và từ xa mạnh
– một biện pháp để phát triển bền vững giáo dục đại học - Báo cáo chính tại Hội nghị thường niên lần thứ
24 của Hội các Đại học mở châu Á, Hà Nội, Việt Nam, 26-28 tháng 10, 2010.
15. Conference Report on Higher Education in the
Asia-Pacific Region, 2008. Macao, SAR, PR China,
25-26/9/2008.
16. Lâm Quang Thiệp, 2010. Vài suy nghĩ về việc
xây dựng một hệ thống đẳng cấp thế giới cho giáo dục đại học nước ta - Hội thảo “Quản
trị trong các trường đại học địa phương ở Việt Nam”, Đại học Hồng Đức, Thanh
Hóa 5-6/3/2010
___________________________________
Nhận xét
Đăng nhận xét