CÁC CẢN TRỞ LỚN TRÊN CON ĐƯỜNG PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẠI HỌC ĐẲNG CẤP THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƯỚC TA
CÁC CẢN TRỞ LỚN TRÊN CON
ĐƯỜNG
PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẠI HỌC ĐẲNG CẤP THẾ GIỚI
ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƯỚC TA
PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẠI HỌC ĐẲNG CẤP THẾ GIỚI
ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƯỚC TA
GS.TSKH. LÂM QUANG THIỆP
Trường Đại học Thăng Long
Trường Đại học Thăng Long
(Trình bày tại Hội thảo “Tài cấu trúc hệ thống Giáo dục đại học
và Giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam cho các thập niên đầu thế kỷ 21”-
Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam, 12/06/2019)
Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam, 12/06/2019)
TÓM TẮT
Sự
tách rời giữa hệ thống các trường
đại học và các viện nghiên cứu lớn, và việc vắng mặt các trường đại học đa lĩnh
vực là hai tàn tích của mô hình Liên Xô cũ. Đây chính là hai cản trở lớn
làm cho khối các nước kinh tế chuyển đổi có rất ít trường đại học đẳng cấp thế
giới. Trung Quốc đã bứt phá khỏi tình trạng này vì đã cố gắng khắc phục các tàn
tích đó. Muốn sớm có các trường đại học đẳng cấp thế giới, Việt Nam cần quyết
tâm cao trong việc khắc phục các cản trở nói trên.
1.
Xếp hạng các trường đại học thế giới
Phấn đấu để có các trường đại học (ĐH) đẳng cấp
thế giới, nằm trong các tốp đầu của các bảng xếp hạng các trường ĐH, là mục
tiêu của nhiều quốc gia. Tuy nhiên hiện thực mục tiêu nói trên không đơn giản. Muốn thúc đẩy việc đạt mục tiêu đó cần xem
xét những yếu tố nào giúp sớm đạt được cũng như những yếu tố nào cản trở mục
tiêu. Bài viết này nhằm khảo sát yếu tố sau, tức là xem xét các cản trở lớn trong
tiến trình phấn đấu nói trên, đối vối các trường ĐH nước ta.
Trước hết hãy tham khảo việc xếp hạng các trường
ĐH trên thế giới. Trong vài thập niên qua rất nhiều hoạt động xếp hạng các trường
ĐH được nhiều tổ chức giáo dục thực hiện. Tuy hoạt động xếp hạng còn tồn tại
nhiều vấn đề [P. Altbach, 2006], và chưa có hệ thống xếp hạng nào được xem là hoàn
toàn chính xác, nhưng cũng có một số tổ chức xếp hạng được chấp nhận tương đối rộng
rãi. Một trong các tổ chức đó là “Xếp hạng
về học thuật các trường ĐH thế giới” (the Academic Ranking of World
Universities - ARWU) do ĐH Thượng
Hải triển khai [en.wikipedia.org, 2019]. Bảng 1 cho thấy phân bố số trường ĐH
trong tốp 100 trường hàng đầu của các quốc gia được xếp hạng vào năm 2018
[ARWU2018.html, 2019]. Từ Bảng 1 có thể thấy trong tốp 100 trường đầu bảng gần
một nửa là của Hoa Kỳ, sau đó là của một số nước OECD. Còn trong khối kinh tế
chuyển đổi, nước phát triển nhất là Liên bang Nga chỉ có một trường góp mặt
(ĐHQG Moscow). Trong khối này, Trung Quốc là nước đặc biệt vượt lên được (có 3
trường: ĐH Thanh Hoa, ĐH Bắc Kinh, ĐH Triết Giang). Từ khối ASIAN, Singapore có
2 trường trong tốp 100 (ĐH quốc gia Singapore và ĐH Công nghệ Nanyang), 1 trường
trong nhóm 500-1000; Malaysia có 2 trường trong tôp 500 (ĐH Malaysia, ĐH Khoa học
Malaysia) và 3 trường trong nhóm 500 -1000; Thái Lan có 4 trường trong nhóm
500-1000. Các nước còn lại trong ASIAN, kể cả Việt Nam, không có trường nào vào
được tốp 1000. Kết quả của các tổ chức xếp hạng khác, như “Times Higher
Education World University Rankings” [THE Ranking, 2019] có khác chút ít về chi
tiết nhưng cũng tương tự về tổng thể. Nhân đây có thể nhớ lại,
như một chuyện đùa, là cách đây 10 năm, một mục tiêu rất hoang tưởng đã được
đưa ra cho nước ta là phấn đấu để có trường nằm trong tốp 200 ĐH hàng đầu thế giới vào năm 2020!
Tại sao số trường ĐH đẳng cấp thế giới của khối
nước kinh tế chuyển đổi lại ít như vậy?
Liên bang Nga là một nước rất mạnh về khoa học, đặc biệt là khoa học
quân sự và vũ trụ, nhưng chỉ có một trường góp mặt? Và tại sao Trung Quốc, cũng
là một nước kinh tế chuyển đổi, lại bứt lên được?
Chúng tôi nghĩ, có thể có hai nguyên nhân quan
trọng về sự yếu kém của GDĐH các nước kinh tế chuyển đổi, do ảnh hưởng của tàn
tích mô hình Liên Xô cũ: một là sự tách rời giữa hệ thống trường ĐH và các viện
nghiên cứu lớn, hai là các trường ĐH phần lớn theo mô hình đơn ngành đơn lĩnh vực.
Còn Trung Quốc bứt lên được cũng có phần do khắc phục được các nhược điểm nêu
trên. Chúng ta hãy phân tích các nguyên
nhân nói trên, gắn với tình hình nước ta.
2.
Sự tách rời giữa hệ thống các trường đại học và các viện
nghiên cứu lớn
·
Từ khi đất
nước thống nhất đến khi bắt đầu “đổi mới”,
hệ thống giáo dục đại học (GDĐH) và nghiên cứu của cả nước ta được xây dựng
theo mô hình Liên Xô, là mô hình có hai đặc điểm nói trên, liên quan đến vấn đề
mà chúng ta đang quan tâm. Ở đây trước hết
chúng ta đề cập đến đặc điểm thứ nhất, tại mục 3 chúng ta sẽ xem xét đặc điểm
trhứ hai.
Hệ thống
các viện nghiên cứu mạnh tách biệt nói trên của Liên Xô đã từng đóng góp quan
trọng để nâng cao kỹ thuật quân sự phục vụ cuộc kháng chiến chống phát xít, và
đặc biệt trong công cuộc nghiên cứu vũ trụ. Tuy nhiên mô hình tổ chức hệ thống
nêu trên tác động xấu đến chất lượng các trường ĐH mà một trong hai chức năng hàng
đầu là nghiên cứu. Với mô hình đó, kinh phí nghiên cứu do Nhà nước tài trợ chủ
yếu dành cho các viện nghiên cứu ngoài trường ĐH, và sinh viên các trường ĐH
không được tập dượt nhờ phụ giúp các nhà nghiên cứu, còn các nhà nghiên cứu thì
không có sinh viên để truyền thụ. Tình trạng đó ảnh hưởng xấu đến chất lượng nghiên
cứu ở các trường ĐH, và khi hoạt động nghiên cứu không tốt thì chất lượng giảng
dạy cũng yếu kém.
·
Để so
sánh, chúng ta hãy xem xét tổ chức hệ thống nghiên cứu và giảng dạy trong các
trường ĐH Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ phần lớn các viện nghiên cứu nằm trong các trường ĐH,
trừ một số tổ chức nghiên cứu lớn như NASA (National Aeronautics and Space
Administration) và vài tổ chức khác. Tuy nhiên, NASA và các tổ chức quan trọng
đó cũng sử dụng nhân lực nghiên cứu chủ yếu từ các trường ĐH [Science policy,
Wikipedia,2019].
Khi bàn về các chính sách nghiên cứu và GDĐH của
Hoa Kỳ người ta thường nhắc đến một báo cáo quan trọng của Vannevar Bush, cố vấn
khoa học của Tổng thống Truman vào năm 1945, với tựa đề là “Science – The
Endless Frontier”. Trong báo cáo có nêu 3 nguyên tắc làm nền tảng cho sự hỗ trợ
của quốc gia đối với nghiên cứu, đó là: 1) Nhà nước trung ương chịu trách nhiệm
chính tài trợ cho khoa học cơ bản; 2) Các trường ĐH – chứ không phải các viện
nghiên cứu thuần túy không giảng dạy - là các cơ sở được ưu tiên triển khai các
nghiên cứu do Nhà nước tài trợ; và 3)
tuy các đề tài nghiên cứu được Nhà nước cấp kinh phí nhưng phải qua quá
trình đánh giá có tính cạnh tranh cao bởi
các đồng nghiệp xem xét độc lập chỉ trên cơ sở trình độ khoa học chứ không phải dựa vào chính trị hoặc
thương mại. Ông cũng đề nghị đẩy mạnh nghiên cứu trong 3 lĩnh vực: quốc phòng,
y tế và kinh tế [Science
The Endless Frontier, 1945 ]. Các nguyên tắc mà Bush đề ra đã được áp dụng ở Hoa Kỳ cho đến
ngày nay, và là một trong các đảm bảo thành công lớn của hệ thống khoa học và
GDĐH Hoa Kỳ.
·
Ở Việt
Nam, cho đến năm 1992 hệ thống nghiên cứu quan trọng vẫn tồn tại theo mô hình
Liên Xô: cơ quan quản lý nhà nước về nghiên cứu là Ủy ban Khoa học Nhà nước,
hai cơ quan nghiên cứu lớn bao trùm (theo kiểu Viện hàn lâm Khoa học ở Liên Xô)
là Viện Khoa học Việt Nam và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhận thức được sự cần
thiết phải hợp nhất lực lượng nghiên cứu và các trường ĐH, năm 1992 Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ) đã chỉ đạo trong Quyết định số 324-CT ngày
11/9/1992 về việc “tổ chức lại mạng lưới các cơ quan nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ”, với ý đồ nêu ngay ở Điều 1 là: “Gắn nghiên cứu khoa học
với đào tạo: coi các trường ĐH và các cơ quan khoa học và công nghệ (KH&CN)
là một hệ thống thống nhất, cần có sự sắp xếp, phân công hợp lý và kết hợp chặt
chẽ nhằm phát huy tối đa năng lực của lực lượng cán bộ KH&CN của cả nước,
nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học”. Trên cơ sở đó Thủ tướng Võ
Văn Kiệt chỉ đạo: “1) Thành lập hai trung tâm khoa học quốc gia (về khoa học tự
nhiên và công nghệ, về khoa học xã hội và nhân văn) và một số trường ĐH trọng
điểm quốc gia, trên cơ sở sắp xếp lại các viện nghiên cứu quốc gia và một số
trường ĐH hiện có. 2) Tổ chức lại các bộ môn, khoa, viện trong các trường ĐH với
sự phân công hợp lý giữa các trường ĐH và các cơ quan KH&CN khác”. Tuy
nhiên, do sức ỳ của hệ thống tổ chức cũ, ý đồ của Thủ tướng Chính phủ muốn hợp
nhất hai hệ thống GDĐH và nghiên cứu không thành. Hai cơ sở nghiên cứu lớn nói
trên được đổi tên nhiều lần, nhưng trhực chất vẫn như cũ. Đến năm 2012, chúng lại
được đổi tên thành hai viện hàn lâm: Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Như vậy là ý
tưởng hợp nhất hai hệ thống GDĐH và nghiên cứu trước đây của Thủ tướng Võ Văn
Kiệt từ năm 1992 không được kế thừa, mà sự tách biệt còn trở nên nặng nề hơn,
đúng theo mô hình của Liên Xô trước đây.
Ở nước ta, sự bảo thủ của hệ thống thật là đáng sợ!
Rõ ràng
sự tách rời giữa hệ thống GDĐH nước ta với hệ thống các tổ chức nghiên cứu quan
trọng nhất đất nước đã và đang làm yếu các trường ĐH, đặc biệt là các ĐH hàng đầu
nước ta, gây cản trở lớn đối với quá trình phấn đấu thành ĐH đẳng cấp thế giới.
3.
Việc không có trường đại học theo mô hình đại học đa lĩnh vực
thật sự
·
Ở Hoa Kỳ
có khoảng 4500 trường ĐH và cao đẳng, chia làm 2 nhóm lớn, khoảng 2800 trường ĐH bốn năm (four-year colleges)
và khoảng 1700 trường ĐH hai năm (two-year colleges). ”ĐH 4 năm” là thuật ngữ để gọi chung các trường
có đào tạo từ bằng cử nhân (bachelor) trở lên. ”ĐH 2 năm” là thuật ngữ để gọi
chung các trường cao đẳng (junior college) hoặc cao đẳng cộng đồng (community
college), đó là các trường cung cấp các chương trình học nghề sau trung học hoặc
các chương trình chuyển tiếp (transfer) cấp các loại “associate degree” để có
thể tiếp tục học ở các trường ĐH bốn năm
[Lâm Quang Thiệp, Bruce Johnstone, Philip
Altbach, 2007]. Phần lớn ĐH 4 năm ở Hoa Kỳ được tổ chức theo mô hình “university”,
tức là trường ĐH đa lĩnh vực, một mô hình trường ĐH có hiệu quả cao nhất. Sở dĩ
mô hình ĐH đa lĩnh vực có hiệu quả cao nhất vì các lý do sau đây. Một là, các ĐH
đa lĩnh vực sẽ đảm bảo đào tạo tốt các chương trình “giáo dục khai phóng” [Lâm
Quang Thiệp, 2018], xu hướng GDĐH chủ đạo ở Hoa Kỳ, vì chỉ trong các university
mới có đủ đội ngũ giáo sư, giảng viên có trình độ cao để giảng dạy tốt các
chương trình giáo dục này. Hai là, các ĐH đa lĩnh vực có ưu thế về nghiên cứu
và phục vụ xã hội, vì ngày nay các đề tài nghiên cứu lớn đều là các đề tài có
tính liên ngành, các hoạt động phục vụ xã hội cũng vậy. Ba là, ĐH đa lĩnh vực bao gồm nhiều
ngành đào tạo khác nhau dễ đối phó với sự biến động về nhu cầu của từng nghề
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chính vì ưu thế của mô hình ĐH đa lĩnh vực nên khi chuyển đổi từ kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, nhiều nước đã chuyển các trường
ĐH đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực sang ĐH đa lĩnh vực (Liên bang Nga, Trung Quốc,
các nước Đông Âu).
·
Vào
đầu thập niên 1990, khi Chính phủ chủ trương xây dựng một số trường ĐH mạnh cho
nước ta, Thủ tướng Võ Văn Kiệt yêu cầu Bộ GD&ĐT thiết kế các ĐH này. Theo yêu
cầu đó Bộ đã đề nghị xây dựng hai ĐH quốc gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh,
ba ĐH vùng Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng theo mô hình ĐH đa lĩnh vực [Hiệp hội..,
2017]. Tuy nhiên việc thực hiện đã diễn ra không đúng như thiết kế, lý do chủ yếu
là các trường
thành viên phản đối việc sáp nhập, vì mất nhiều “ghế” quản lý. Các nhà tổ chức
phải thỏa hiệp bằng cách hứa hẹn giữ nguyên vị trí các trường thành viên, không
thay đổi các chức vụ quản lý trước đây, do đó các quy chế tổ chức được xây dựng
theo mô hình ĐH hai cấp. Theo mô hình này, hoạt động trong các
trường thành viên hầu như vẫn giữ như cũ, sự kết nối giữa các trường thành viên
với nhau rất lỏng lẻo, và cấp quản lý trên cùng của “ĐH” thực hiện một cơ chế
quản lý trung gian gián tiếp, giống như các “bộ ĐH” nhỏ. Mô hình thực tế của
các ĐH quốc gia và ĐH vùng đã vô hiệu hóa hoàn toàn các ưu thế của mô hình ĐH
đa lĩnh vực như đã nói trên đây. Thế nhưng cơ chế “hai cấp” của các ĐH đa lĩnh
vực thậm chí đã được khẳng định và gắn với khái niệm “ĐH” ở Luật GDĐH năm 2012,
chỉ được xóa bỏ trong Luật GDĐH năm 2018.
Các ĐH “hai cấp” ở nước ta không phát huy được các thế
mạnh của mô hình “university” như đã nêu trên đây. Trước hết, các trường thành
viên đều là các trường đơn ngành, đơn lĩnh vực, lại liên kết với nhau rất lỏng
lẻo, hầu như hoàn toàn độc lập về đào tạo, nên ưu thế về việc nâng cao chất lượng
đào tạo theo chương trình giáo dục khai phóng không thể hiện được. Cũng
vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu, phục vụ xã hội và đáp ứng thị trường
lao động, quan hệ lỏng lẻo giữa các trường thành viên rất khó tạo nên sự phối hợp
để tăng hiệu quả. Chính vì sự kém hiệu quả của các mô hình ĐH
quốc gia và ĐH vùng nên Ngân
hàng Thế giới (WB) đã có một văn bản góp ý chính thức khi xây dựng Luật GDĐH
2018 đề nghị điều chỉnh các mô hình đó [The World Bank team…, 2018]. Trước hết họ nói đó là mô hình duy nhất độc đáo tại Việt
Nam (“is unique to Vietnam”) và không thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới (“We
have not come across this set up in any country in the world”). Nói theo ngôn ngữ
thông thường, đó là một mô hình “không giống ai” trên thế giới, và có nhiều nhược
điểm. Theo họ, các nhược điểm đó là:
“không tận dụng được hết ưu thế về tài năng, kiến thức, và tiềm lực hiện có bị
phân tán trong một số lớn các cơ sở tách biệt. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng
các cơ sở ĐH phi tập trung hoạt động kiểu như các trường thành viên độc lập gắn
kết yếu gặp thách thức lớn nhằm chuyển đổi và tăng cường hoạt động bởi vì mỗi
trường thành viên đều có kế hoạch và ưu tiên của riêng mình, không nhất thiết gắn
chặt với mục tiêu chung của ĐH lớn. Sự thiếu tích hợp làm cho chúng không thể tạo
nên một sự đồng nhất cốt lõi và một tình cảm chung về mục đích. Khi không có một tầm nhìn chung, nhiệm vụ thiết
kế và thực hiện một dự án phát triển đổi mới cho toàn bộ trường ĐH trở thành bất
lực. Các cơ sở ĐH phi tập trung có xu hướng trở thành không hiệu quả vì sự
trùng lặp của việc cung cấp các khóa học và các cấu trúc hành chính. Các hoạt động
trong giảng dạy và nghiên cứu vẫn được giữ trong nội bộ các trường và khoa
riêng biệt. Những nỗ lực đa ngành bị cản trở.
Các nguồn lực tài chính và khoa học không được chia sẻ rộng rãi.” Các nhận xét đó thể hiện khá đầy đủ nhược điểm
của mô hình ĐH hai cấp mà chúng tôi đã nhiều lần phát biểu [Lâm Quang Thiệp,
2017, 2018].
Rõ ràng việc hai ĐH lớn nhất ở nước ta không
được xây dựng theo mô hình “university” thật sự là một cản trở lớn để chúng phấn đấu trở thành
ĐH đẳng cấp thế giới.
4.
Bài học từ Trung Quốc
Từ khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm
1949 đến thời kỳ cải cách mở cửa GDĐH Trung quốc được xây dựng theo mô hình
Liên Xô. Từ năm 1980, trong xu thế mở cửa và cải cách từ mô hình kinh tế “kế hoạch hóa tập trung
đông cứng” sang mô hình “kinh thế thị trường xã hội chủ nghĩa năng động”, GDĐH
Trung Quốc đã
thực hiện những cải cách to lớn. Cải cách GDĐH
Trung Quốc được thực hiện theo phương châm “tổng
hợp tính, nghiên cứu hình, khai phóng thức”,
tức là xây dựng trường ĐH có tính tổng hợp (đa lĩnh vực), chú trọng nhiều đến
hoạt động nghiên cứu, và đào tạo theo mô hình giáo dục khai phóng. Có thể lưu ý các
thành tựu cải cách cụ thể sau đây, liên quan trực tiếp đến sự bứt phá
trong việc xây dựng các ĐH
đẳng cấp thế giới đã nêu ở mục 1.
Về quản lý, xu hướng chung là tăng quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các trường ĐH.
Nhằm tạo thuận lợi
cho các trường ĐH hoạt động trong kinh tế thị trường, các trường ĐH được tổ chức
lại. Phương châm tổ chức lại trường ĐH lớn là xây dựng thành ĐH đa lĩnh vực;
tăng cường hoạt động nghiên cứu trong cả giáo chức và sinh viên; tạo lập mô
hình mở trong quan hệ giữa các trường thành viên, các khoa ngành đào tạo, giữa
trường ĐH với giới công nghiệp và xã hội, giữa trường ĐH và nước ngoài. Chẳng hạn, ĐH Bắc Kinh vốn bao gồm các
lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội kiểu “universitet” của Liên Xô
cũ, cũng như ĐH Thanh Hoa vốn là một ĐH bách khoa với lĩnh
vực kỹ thuật công nghiệp, đều đã mở bổ sung thêm nhiều lĩnh vực khác
để trở thành các “university” đa lĩnh vực theo kiểu phương Tây.
Về đào tạo, Trung Quốc đã chuyển đổi hệ thống văn bằng theo mô hình Liên Xô trước kia
sang mô hình 3 cấp bachelor, master và doctor của Hoa Kỳ. Về chương trình đào tạo cho cấp cử nhân, đã chuyển từ đào tạo theo diện chuyên
môn hẹp sang đào tạo theo diện rộng,
chú trọng đến phần kiến thức giáo dục đại
cương để tạo kiến thức nền tảng, kỹ năng cơ bản, tầm nhìn rộng và tính nhân
văn cho sinh viên. Với tinh thần đó, từ 1.400 ngành học ở
cấp cử nhân trước kia đã giảm xuống còn 500 ngành học vào giữa thập niên 1990 và còn khoảng 300 ngành học vào đầu thế kỷ XXI. Đi đôi với cải cách về chương trình đào tạo là cải cách về phương pháp dạy và học theo hướng tăng cường phương
pháp dạy theo cách giải quyết vấn đề và tăng cường sự tham gia tích cực của
sinh viên vào quá trình dạy và học. Để tạo sự mềm dẽo và thích ứng của chương
trình giảng dạy đối với từng cá nhân sinh viên, Trung Quốc đã áp dụng hệ thống tín chỉ trong việc xây dựng
chương trình đào tạo ĐH.
Song song với việc
đại chúng hóa GDĐH, từ khoảng 7 triệu sinh viên năm 1998 đã tăng lên khoảng 27 triệu
[Ma Xiaoying, 2008] vào năm 2007,
Trung Quốc đã tập trung xây dựng các trường ĐH hàng đầu. Vào năm 1995, Chính phủ Trung Quốc đưa ra Dự án 211 nhằm xây dựng cỡ 100 trường ĐH hàng
đầu Trung Quốc vào đầu thế kỷ XXI, với 3 mục tiêu: 1) Tăng cường tiềm năng toàn diện của nhà trường; 2) Phát
triển các ngành đào tạo chủ chốt; 3) Phát triển hệ thống dịch vụ công trong GDĐH (mạng internet, thư viện tư liệu, hệ thống thiết bị và phương tiện hiện đại
sử dụng chung);
trong hai kế hoạch 5 năm Dự án này được tài trợ hơn 4 tỷ US$ [U.
Brandenburg, 2004]. Vào năm 1998, Dự án 985 lại được đề xuất với mục tiêu xây dựng khoảng 10 trường ĐH
nghiên cứu đẳng cấp thế giới. Pha đầu của Dự án (1998-2003) đầu tư khoảng hơn
1,5 tỷ US$ cho 10 trường ĐH hàng đầu, pha 2 của Dự án (2003-2008) đầu tư một lượng
kinh phí lớn hơn cho 39 trường ĐH. Các trường ĐH hàng đầu thường được nhắc đến
là trường ĐH Bắc Kinh, trường ĐH Thanh Hoa v.v…
Hiện nay, Trung Quốc phân chia các trường ĐH hàng đầu làm 3 tầng: 1) Tầng trên cùng
là hai ĐH Bắc Kinh và Thanh Hoa và 7 trường khác, trong đó có ĐH Triết Giang; 2) Tầng tiếp đến là 38 trường ĐH được Dự án 985 hỗ trợ; và 3)
Tầng 3 là khoảng 100 trường ĐH được Dự án 211 hỗ trợ.
Qua các số liệu trên có thể thấy sự bứt phá về
số lượng các trường ĐH đẳng cấp thế giới trong tốp 100 của Trung Quốc không phải
là ngẫu nhiên, mà là kết quả của một quyết tâm cải cách và đầu tư rất mạnh mẽ,
trong đó có việc chuyển đổi mô hình các trường ĐH thành ĐH đa lĩnh vực và đầu
tư mạnh cho công tác nghiên cứu. Tuy
Trung Quốc đã đạt được thành tựu đáng nể, nhưng nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng
sự tiến bộ về GDĐH của Trung Quốc cũng sẽ khó bền vững vì ở đó thiếu tự do học
thuật [Du Xiaoxin, 2019].
5.
Muốn thay đổi hệ thống cần có quyết
tâm cao
Qua những phân tích trên đây có thể thấy muốn giảm bớt những cản trở trên
con đường phấn đấu để có các trường ĐH đẳng cấp thế giới, chúng ta cần thay đổi
hệ thống GDĐH và nghiên cứu và điều chỉnh các mô hình ĐH để có các ĐH đa lĩnh vực
thật sự. Các điều chỉnh này liên quan đến toàn hệ thống, và trước hết liên quan
đến các trường ĐH hàng đầu.
Với tính bảo thủ nặng nề của hệ thống, quá trình thay đổi này không đơn giản,
việc thay đổi chỉ có thể thành công nếu có quyết tâm mạnh mẽ ở cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Hy vọng với nhận thức về tầm quan trọng của GDĐH đối với quốc gia trong thời
đại kinh tế tri thức, thời
đại mà các trường ĐH là các thực thể trung tâm của xã hội, những người có trách nhiệm lãnh đạo ở nước ta cảm nhận được vấn đề và có
quyết tâm cao để thực hiện sự
thay đổi.
Hà Nội, 5/2019
___________________
TÀI LIỆU DẪN
1.
Philip G. Altbach. The Dilemmas of Ranking, International
Higher Education, Boston College, No 42, 2006.
5.
Science policy of the United
States – Wikipedia, 2019.
6.
Science The Endless Frontier - A Report to
the President by Vannevar Bush, Director of the Office of Scientific Research
and Development, July 1945 - (United States Government Printing Office,
Washington: 1945) - http://www.nsf.gov/od/lpa/nsf50/vbush1945.htm
7.
Lâm Quang Thiệp, D. Bruce Johnstone, Philip G. Albach hiệu đính, Giáo dục
đại học Hoa Kỳ, tái bản lần thứ 1, NXB
Giáo dục, 2007.
8.
Lâm Quang Thiệp. Sự trở lại của giáo dục khai phóng, Hội thảo
"Đổi mới căn bản và toàn diện hoạt động
đào tạo trong các trường đại học và cao đẳng", Hiệp hội các trường đại
học và cao đẳng Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh 2/11/2018.
9.
The World Bank team, 2018. Comments on Vietnam HE Law amendment draft,
29/4/2018.
10. Lâm
Quang Thiệp, 2017. Đại học đa lĩnh vực thành công trên thế giới, nhưng sao gặp "sự
cố" ở ta? Giaoduc.net, 15/09/17.
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Dai-hoc-da-linh-vuc-thanh-cong-tren-the-gioi-nhung-sao-gap-su-co-o-ta-post179666.gd
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Dai-hoc-da-linh-vuc-thanh-cong-tren-the-gioi-nhung-sao-gap-su-co-o-ta-post179666.gd
11. Lâm Quang Thiệp, 2018. Mô
hình đại học đa lĩnh vực và việc triển khai xây dựng ở nước ta. Tap chí Khoa học và Công nghệ - Tháng 2 năm 2018.
http://khoahocvacongnghevietnam.com.vn/epaper/view-pdf.php?year=2018&no=3
http://khoahocvacongnghevietnam.com.vn/epaper/view-pdf.php?year=2018&no=3
12. Ma Xiaoying and Malcolm Abbott, 2008. China's
Tertiary Education Expansion. Boston
College, International Higher Education, N0 53.
13. Uwe Brandenburg – Jani Zhu,
2004. Higher
Education in China in the light of massification and demographic change. http://www.che.de/downloads/Higher_Education_in_China_AP97.pdf.
14.
Du Xiaoxin.
Critical Thinking and Ideology in Chinese Higher Education. International Higher Education, Boston College, No 97,
2019.
Nhận xét
Đăng nhận xét